Kề từ khi cuộc rút quân thảm khốc trên tỉnh lộ 7 – từ Pleiku/Ban Mê Thuột về Phú Yên – bắt đầu, tôi gần như sống trong sự khủng hoảng nào đó, không lúc nào tâm hồn được yên. Bất ngờ điện thoại reng. Vừa chụp ống nghe, chưa kịp nói “allo”, tiếng của Minh – Hải Quân trung tá và cũng là Bố của các con tôi – đã vang lên từ đầu giây bên kia:
– Đang làm gì đó, “cô nương”?
– Có tin gì khác không, anh?
– Có…
Minh hơi ngập ngừng. Tôi chờ một chốc rồi dục:
– Allo! Anh đang bận, phải không?
– Không. Anh nghe đây.
– Sao đang không anh im lặng vậy?
– Thôi, để anh về anh nói cho nghe.
– Thì nói bây giờ đi!
– Em còn giữ ý định tìm phương tiện về ngoài đó hay không?
– Em phải về.
– Anh hiểu. Anh về bây giờ.
Sau khi gác điện thoại, tôi chợt nhớ đến anh Trí – thiếu tá Không Quân – đã hứa sẽ tìm phương tiện cho tôi về Cam Ranh đem gia đình vào Saigon. Tôi quay số. Bà Trí bắt ống nghe. Tôi nhắc bà về lời hứa của anh Trí. Bà Trí bảo tôi chờ. Một thoáng sau, tôi nghe tiếng của anh Trí:
– Chị Minh! Chị chưa nghe gì hết sao?
– Dạ, nghe gì, thưa anh?
– Nha Trang mất rồi!
– Dạ, anh nói gì, anh Trí?
– Nha Trang mất rồi, bà ơi! Tôi tưởng anh Minh cho chị hay rồi chứ.
Thẩn thờ một chốc, tôi “rơi” vào lòng ghế xa-lông, đầu óc trống rỗng. Anh Trí tiếp:
– Thôi, chị à! Tôi quý chị lắm, nhưng tôi khuyên chị là… hết rồi! Chị không nên “liều mạng” như vậy.
– Dù chuyến bay chót cũng được, anh Trí à! Tôi sẽ tìm phương tiện trở về sau.
– Bây giờ chỉ còn những chuyến trực thăng ra đến Cam Ranh thôi. Nhưng tôi cũng không thể để chị đi những chuyến đó; bởi vì chưa biết mình còn giữ được Cam Ranh bao lâu nữa! Đã đành gia đình là quan trọng, nhưng chị còn chồng còn con của chị nữa chứ, chị quên sao?
– Dạ, tôi biết. Nhưng các cháu có anh Minh lo; còn gia đình của tôi ngoài đó không ai lo được gì cả.
– Bộ chị không sợ Việt cộng hay sao mà giờ này còn đòi bay về ngoài đó?
Anh Trí chuyển đề tài bất ngờ khiến tôi hơi lúng túng:
– Dạ… dạ…
Tôi nghe giọng bà Trí nói chi đó rồi anh Trí cười lớn. Chỉ một thoáng thôi, giọng anh Trí trở nên hấp tấp:
– Allo! Allo! Chị còn đó không? Xin lỗi chị, tôi cười hơi lớn vì bà xã tôi nói tôi “cà chớn”, nhè chị mà hỏi có sợ Việt cộng hay không.
Tôi cũng cười, chưa biết cách nào trở lại đề tài xin trực thăng đi Cam Ranh thì Minh đẩy cửa, bước vào. Tôi đưa tay che ống nói rồi nói với Minh:
– Anh Trí.
– Trí nào?
– Anh Trí Không Quân.
Minh “a” lên một tiếng rồi đi thẳng lên lầu. Anh Trí hỏi:
– Anh về, phải không, chị?
Tôi “Dạ”. Anh Trí đổi giọng thân mật:
– Thôi, xong rồi. Bà lo cho ông ấy đi. Không đi đâu cả, có gì ân hận lắm đó, bà!
Sau khi gác điện thoại, tôi như kẻ mất hồn. Minh từ trên lầu đi xuống, hỏi:
– Trí cho em hay rồi, phải không?
Tôi như muốn khóc, “dạ” nho nhỏ, trả lời câu hỏi của Minh. Một lúc lâu, Minh hỏi:
– Em còn muốn về ngoài đó không?
– Dạ. Nhưng anh Trí bảo không giúp được. Còn tàu, anh thấy có chiếc nào đi ra Trung nữa không?
– Có. Nhưng tới Phan Rang thôi.
– Vậy cũng được. Chiếc nào vậy, anh?
– 505.
– 505 là chiếc nào?
– LST (Landing Ship Tank) Nha Trang.
– Ai là Hạm Trưởng, anh?
Minh cười, ánh mắt tinh nghịch:
– Nhượng đó!
– A, anh Nhượng khóa 9 đó hả? Anh xin anh ấy cho em quá giang đi!
Minh im lặng.
Trong bữa cơm chiều, Minh bàn tính về chuyến “mạo hiểm” của tôi. Minh liên lạc với hai người đàn ông mà gia đình của họ cũng kẹt lại Cam Ranh, khuyên họ nên đi với tôi.
Chiều hôm sau Minh đưa cả ba chúng tôi sang Thành Tuy Hạ; vì Dương Vận Hạm Nha Trang, HQ 505, đang nhận đạn tại đây.
Trên boong chiến hạm, tôi gặp lại Trung Úy Trần Há – người đã lội nát vùng U Minh trong thời gian anh phục vụ tại Giang Đoàn 26 Xung Phong, dưới sự chỉ huy của Minh. Tôi nghe tiếng anh Há phàn nàn nho nhỏ với Minh:
– Giờ phút này mà Commandant để chị đi làm chi, Commandant?
– Hồi ở Giang Đoàn 26 “toa” còn lạ gì tính cương quyết của bả. Thôi, có gì “toa” lo cho bả giùm. “Moi” đã nói với Hạm Trưởng Nhượng rồi.
Nói xong Minh vội vàng rời chiến hạm; vì tàu vừa vào nhiệm sở vận chuyển. Vừa khi đó, giọng Há vang lên từ cửa thông vào phòng ăn sĩ quan:
– Chị vào nghỉ, sắp dùng cơm rồi, chị!
Tôi ngồi vào xô-pha, nhìn các sĩ quan từ từ kéo nhau vào, ngồi quanh bàn ăn, theo thứ tự thâm niên kể từ chiếc ghế dành riêng cho Hạm Trưởng. Tôi nhận ra Khánh, em của một nhà văn Không Quân. Tôi hỏi thăm Khánh về “ông anh nhà văn”. Khánh kể cho tôi nghe về cái chết của ông ấy. Tôi không ngờ những ngày cuối cùng của nhà văn ấy bi thảm đến như vậy!
Nói chuyện xưa một lúc, Khánh chợt đổi đề tài, kể cho tôi nghe về những hải trình mà Dương Vận Hạm Nha Trang HQ 505 đã vượt qua trong thời gian di tản miền từ Trung. Trong câu chuyện, thỉnh thoảng Há và những sĩ quan khác cũng góp thêm nhiều chi tiết mà chỉ nghe không thôi, tôi cũng cảm thấy kinh hoàng! Và, sau cuộc rút quân ở Chu Lai, Dương Vận Hạm Nha Trang HQ 505 mang biệt danh là “Con Tàu Máu”!
Câu chuyện sắp đến đoạn ủi bãi Chu Lai thì Hạm Phó bước vào. Hạm Phó ngồi vào ghế đầu bàn, góp chuyện với chúng tôi. Trong khi câu chuyện giữa chúng tôi đang “nổ” dòn, nhà bếp vẫn âm thầm dọn lên bàn một bữa ăn rất đạm bạc.
Các sĩ quan đang cười, nói huyên thuyên bỗng im bặt vì Hạm Trưởng Nhượng vừa bước vào. Tất cả – trừ tôi – đứng lên chào Hạm Trưởng. Anh Nhượng nhìn tôi, mỉm cười, rồi mời tất cả sĩ quan ngồi xuống.
Thấy bữa ăn chiều trên chiến hạm HQ 505 tôi mới nghiệm ra một điều: Những người đi tàu giữ đúng nghi thức và truyền thống Hải Quân hơn những người ở đơn vị tác chiến.
Anh Nhượng mời tôi dùng “cơm lính”. Tôi cười:
– Cơm lính gì, mấy anh ăn sang quá; cơm giang đoàn mới đúng là cơm lính đó, anh!
Anh Nhượng chỉ cười. Khánh bảo:
– Chị thiên vị lính giang đoàn rồi đó!
Tôi đáp:
– Đâu có. Anh hỏi anh Há xem, lính giang đoàn cực lắm!
Anh Nhượng đưa tay về phía ghế trống, mời tôi một lần nữa:
– Mời chị.
Lúc này tôi mới chợt nhớ, vội lắc đầu:
– Dạ, cảm ơn anh, nhưng tôi xin lỗi, tôi ăn chay.
Anh Nhượng ngạc nhiên:
– Thế à? Để tôi bảo nhà bếp làm cơm chay cho chị.
Tôi đứng lên, đi dần ra cửa:
– Dạ, cảm ơn anh. Tôi xuống bếp xin chút xì dầu.
Nói như vậy, nhưng khi vào bếp, tôi nhờ anh nhà bếp ra thưa với Hạm Trưởng Nhượng là tối tôi mới ăn; xin anh nhà bếp để dành cho tôi ít cơm và xì dầu. Sau đó tôi ra trước mũi chiến hạm, ngồi lặng lẽ, nhìn dòng sông Saigon uốn khúc trong hoàng hôn chập chùng.
Trên mặt sông lặng lờ, đoàn giang đỉnh đang di động ngược chiều với HQ 505, tạo nên những lượn sóng loáng thoáng màu bạc. Lúc đến gần tôi mới nhận ra đó là đoàn PBR – River Patrol Boat. Đối với tôi, hình ảnh đẹp nhất là từ trên trực thăng, nhìn đoàn PBR lướt nhanh trên những đoạn sông hẹp, bỏ lại phía xa mặt sông cuồn nộ giữa hai hàng dừa nước quằn quại. Bây giờ, trên dòng sông lớn, nhìn đoàn PBR ẩn hiện lờ mờ trong bóng hoàng hôn tôi vẫn thấy có một cái gì đó rất hùng vĩ, rất lãng mạn.
HQ 505 đến vịnh Phan Rang vào một buổi sáng trời trong, biển êm.
Theo hoạch định, tôi sẽ ở trên HQ 505, hai người đàn ông theo tôi sẽ vào bờ, thuê xe đi ra Cam Ranh, đem cả mấy gia đình vô Phan Rang. Nếu khi họ trở vô mà chiến hạm đã chuyển xong số đạn và không còn ủi bãi nữa thì họ sẽ giăng một tấm vải màu làm hiệu và tôi sẽ nhờ anh Nhượng cho xuồng đổ bộ vào đón.
Thấy hai người đàn ông lộ vẻ vui mừng, tôi đưa cho họ tờ giấy xếp nhỏ và dặn:
– Ông đưa giùm giấy này cho Ba tôi. Có chữ của tôi Ba tôi mới tin. Ông nhớ nói giùm với Ba tôi là tôi đang chờ ở đây, trên tàu …
Tôi chưa nói hết câu, Há bước vào, gọi khẽ: “Chị!”. Ngẫng lên, thấy nét mặt khác thường của Há, tôi lo âu:
– Dạ, có gì vậy, anh Há?
– Dạ, Hạm Trưởng cho biết tàu không được phép ủi bãi!
Tôi vội chạy ra cửa. Tôi không biết tôi chạy ra cửa để làm gì? Và sẽ chạy đi đâu? Nhưng ra đến boong tàu, tôi thấy anh Nhượng từ đài chỉ huy chạy xuống. Tôi tựa vào khoanh dây thừng, nhìn bước chân vội vã của anh Nhượng trên cầu thang. Đến bên tôi, anh Nhượng chậm rãi:
– Ông Minh – Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh – không cho tàu tôi vào, chị ạ!
– Ông Minh đang ở đâu, thưa anh?
Anh Nhượng chỉ một chiến hạm đang neo gần trong vịnh:
– Ông ấy đang ở trên HQ 3 đấy.
– Bây giờ làm sao, anh Nhượng?
– Chị vào nghỉ, có gì tôi sẽ cho chị hay.
Tôi ngồi phịch lên thùng sắt để cạnh, gục đầu vào lòng bàn tay. Một lúc lâu, tôi đến vịn giây cáp ven thân tàu, nhìn xuống lòng biển xanh, cố tìm một giải pháp trong trường hợp HQ 505 được lệnh rời vùng biển này, nhưng nghĩ mãi không ra.
Trong khi tôi đang tìm phương cách để vào bờ thì nhiều người dồn về phía bên này chiến hạm để nhìn vào bờ. Tôi ngơ ngác nhìn quanh. Bất ngờ một sĩ quan trao tôi ống dòm:
– Chị muốn dùng ống dòm không?
Tôi ngạc nhiên:
– Dạ, chi vậy, anh?
– Nè, chị nhìn vào bờ đi.
Anh trao ống dòm cho tôi. Tôi nhìn vào bờ và thấy vô số ghe thuyền đang bơi ra. Anh sĩ quan hỏi:
– Chị thấy gì không?
– Dạ, ghe nhiều quá! Tại sao vậy, anh?
– Không. Tôi muốn hỏi chị có thấy hai xe tăng hay không?
– Dạ có, có. Tăng gì mà lớn quá vậy, anh?
– T54 đó, chị.
Tôi giật mình, đưa tay che miệng để khỏi phải bật lên tiếng kêu thảng thốt. Như vậy có nghĩa là Phan Rang đã thất thủ rồi! Tôi không còn hy vọng gì đưa gia đình tôi đến nơi an toàn được nữa. Tôi lui vài bước, ngồi lại trên thùng sắt, khóc! Không biết bao lâu sau đó, tôi cảm biết có người đứng cạnh. Tôi ngẫng lên. Anh Nhượng lặng lẽ nhìn tôi. Tôi thở dài, ngượng nghịu quẹt nước mắt vào tay áo. Anh Nhượng lắc đầu:
– Chị vào trong nghỉ đi. Không làm gì được nữa rồi!
– Khi toán ghe đó đến đây, tôi sẽ thương lượng mua hoặc mướn một chiếc để đi vào…
Anh Nhượng cắt lời tôi:
– Không được! Tôi không thể để chị đi như vậy.
– Anh giúp tôi, anh Nhượng. Anh cũng quen thân với Ba Má tôi mà!
– Chị Minh! Tôi quý hai Bác lắm, nhưng trong tình cảnh này chị không thể rời tàu.
Há và Khánh cũng đến khuyên nhủ tôi:
– Nếu Hạm Trưởng để chị rời tàu, rủi có gì làm sao Hạm Trưởng ăn nói với Commandant Minh. Chị thấy không?
Làm thế nào tôi không thấy được điều đó; nhưng tôi vẫn muốn làm một chút gì để cứu gia đình tôi. Như hiểu được tôi nghĩ gì, anh Nhượng nhỏ nhẹ:
– Chị giận thì tôi chịu. Nhưng nếu có anh Minh ở đây, tôi nghĩ anh ấy cũng không để chị rời tàu đâu.
Biết mình làm phiền nhiều người, tôi cố nén đau buồn để gương mặt được tươi tĩnh, khỏi bận tâm những người chung quanh.
Khi đoàn ghe đến gần, tôi thấy áo của nhiều quân binh chủng được đưa cao, vẫy vẫy. Bất ngờ tôi nhận ra chiến hạm đang từ từ đổi hướng. Tôi ngạc nhiên, vội quay sang anh Nhượng thì thấy anh Nhượng vừa đến chân cầu thang, sắp bước lên đài chỉ huy. Tôi gọi: “Anh Nhượng!” Anh Nhượng quay lại. Tôi tiếp:
– Anh không vớt mấy ông lính trên ghe sao?
Dường như anh Nhượng đang cố nén tiếng thở dài rồi lắc đầu:
– Tôi được lệnh không vớt ai cả. Một tàu đạn đầy!
Trên những chiếc ghe tròng trành vì sóng, những thân người gầy gò kêu gào. Và những đôi mắt… Ôi! Những đôi mắt van xin, những đôi mắt buổn thảm, những đôi mắt thất vọng ấy bỗng rực lên những tia phẫn hận khi chiến hạm “bẻ” mạnh một vòng cua ngặt!
Gục đầu vào khoanh dây thừng, tôi khóc tức tưởi vì những oan khiên, thảm khốc đang phủ chụp xuống từng phần đất thân yêu và những nghiệt ngã đang bủa vây đoàn người bại trận!
Khi Dương Vận Hạm Nha Trang HQ 505 vừa qua khỏi Cà Ná một chút, tôi nghe tin Dương Vận Hạm Vũng Tàu HQ 503 bị Việt cộng bắn ngay đài chỉ huy, gây tử thương cho bốn năm người. Thấy vẻ tư lự của Há, tôi tò mò hỏi. Há thở dài:
– Một trong các sĩ quan tử thương tại đài chỉ huy HQ 503 là thủ khoa khóa tôi.
Tôi im lặng, quẹt nước mắt.
Gần đến Phan Thiết, tin Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi bị bắt khiến mọi người bàn tán, âu lo hơn. Tôi nhìn ra khơi. Trong khoảng không gian mênh mông của biển tự dưng tôi tưởng như tôi có thể thấy lại được hình ảnh Tướng Nghi – khi Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi là Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh, Vùng IV Chiến Thuật – và Minh đứng trên mô đất cao quan sát trận địa khi cuộc tấn công của Việt cộng vào đồn thứ 9 còn ngùn ngụt khói, vào một buổi sáng khi hơi nước từ kinh Trèm rẹm còn đọng trên từng chiếc lá non.
Đêm đến. Phan Thiết bị tấn công. Hỏa châu thắp sáng một vùng đau thương! Lẫn trong vô số vệt sáng đỏ ửng kim loại hoặc xanh biếc như màu mắt của thần chết, tôi thấy nhiều vệt sáng thật lớn, xé không gian theo hình cầu vòng rồi tan biến trong đêm.
Từ nhỏ, tôi cứ nghĩ chỉ có Nha Trang và Đà Lạt là hai nơi tôi yêu mến. Nhưng bây giờ, thấy từng trái đạn cày sâu vào vùng đất hấp hối này, tôi đau lòng. Từ đó tôi nhận ra rằng, vì lòng người eo hẹp, phân chia ranh giới, chứ bất cứ vùng đất nào bên bờ đại dương thắm máu này cũng đều là Quê Hương của tôi cả.
Dương Vận Hạm Nha Trang về đến Vũng Tàu vào một buổi sánh nắng nhạt. Anh Nhượng cho “ca nô” đưa tôi vào bờ.
“Ca nô” rời chiến hạm. Nhìn lại HQ 505, tôi thấy anh Nhượng đang bước lên đài chỉ huy. Anh Nhượng dừng lại ở cầu thang chót, đưa cao tay vẫy, chào tôi. Tôi cũng vẫy tay chào anh. Bóng anh Nhượng in lên nền trời xanh. Thật đẹp!
Sau khi bạn của Minh đưa xe đến đón tôi, chiếc “ca nô” mới trở lại tàu.
Nhìn theo chiếc “ca-nô” hướng dần về phía chiến hạm 505, tôi thầm nhủ: “Xin cảm ơn các anh, cảm ơn Dương Vận Hạm Nha Trang, cảm ơn biển Mẹ đã cho tôi chuyến viễn du cuối cùng để thấy Quê Mẹ quằn quại trong cơn đau, để nhìn Quê Hương lịm dần vào cõi chết!”
Điệp Mỹ Linh
Hồi ký
Be the first to comment