Một lớp tại Học viện Excel ở East Boston, trong dịp Thống đốc Deval Patrick viếng thăm năm 2009 (đứng giữa những người quan sát ở phía sau). (Ảnh của Chris Lovett)
Các nghiên cứu mới cho thấy dân số vùng Đại Boston ngày càng đa dạng hơn về chủng tộc, nhưng cũng càng bị phân rẽ hơn về lợi tức và sự lựa chọn giáo dục sau đại dịch Covid-19. Như nhiều số liệu cho thấy, hiện tượng “phân hóa lớn” được xác nhận hơn hai mươi năm trước đang phân nhánh thành những mô hình mới, dù ở các vùng ngoại ô có lợi tức cao hay trong các trường học ở Boston.
Theo Boston Indicators, trung tâm nghiên cứu thuộc Boston Foundation, sự phân cực kinh tế của khu vực đã gia tăng trong nhiều thập niên, trong khi dân số trung lưu và dân số trong độ tuổi đi học trong thành phố Boston đã giảm. Trong những năm đó, số lượng học sinh nhập học vào tất cả các trường công ở Boston – bao gồm cả các trường bán công – ngày càng bị chi phối bởi học sinh từ các gia đình có lợi tức thấp.
Khi xem lại 40 năm qua, Boston Indicators nhận thấy có sự tăng trưởng về tỷ lệ hộ gia đình có lợi tức cao và thấp trong khu vực. Theo xu hướng chung của cả nước, “sự phân cực lợi tức đáng kể” bao gồm một phân khúc lợi tức trung bình đang thu hẹp, với Boston là khu vực có tỷ lệ lợi tức trung bình nhỏ thứ tư trong số các khu vực đô thị lớn của Hoa Kỳ.
Theo đo lường của Boston Indicators, sự phân hóa lợi tức cao trong khu vực đô thị đã tăng hơn gấp đôi kể từ năm 1980, và tăng mạnh hơn nữa kể từ năm 2020. Các nhà nghiên cứu giải thích: “Các hộ gia đình giàu ngày càng tập trung lại với nhau, thúc đẩy phần lớn sự gia tăng tổng thể về sự phân hóa lợi tức trên toàn khu vực.”
Theo một nghiên cứu từ mùa xuân năm 2025 của Boston University’s Wheelock Educational Policy Center (WEPC), số lượng học sinh nhập học vào các trường công ở Massachusetts từ năm 2020 đến năm 2024 đã giảm 2%, trong khi số lượng học sinh ghi danh học vào các trường tư và trường đạo tăng 14%. Các nhà nghiên cứu của WEPC nhận thấy sự sụt giảm “trên diện rộng” về số lượng học sinh nhập học vào các trường công, nhưng phổ biến hơn ở các vùng ngoại ô có lợi tức cao. Sự thay đổi về số lượng học sinh nhập học cũng trùng khớp với xu hướng dài hạn về quy mô gia đình ngày càng nhỏ hơn.
Mặc dù báo cáo cho thấy số lượng học sinh ghi danh vào các trường công ở các khu vực có lợi tức thấp đã “phục hồi đáng kể”, các nhà nghiên cứu của WEPC nhận thấy rằng sự sụt giảm số lượng học sinh trên toàn tiểu bang so với mức trước đại dịch đã “ổn định” ở mức 3% đối với học sinh da trắng và 8% đối với học sinh châu Á. Các nhà nghiên cứu gọi xu hướng này ở học sinh da trắng và châu Á là “sự di cư dai dẳng”, cảnh báo rằng “đại dịch đã làm thay đổi đáng kể thành phần chủng tộc/sắc tộc ở các trường công”.
Theo báo cáo nghiên cứu của họ, kết quả từ Massachusetts phản ánh xu hướng toàn quốc: “Sự sụt giảm liên tục trong số lượng học sinh ghi danh vào trường công được quan sát thấy ở đây phù hợp với bằng chứng cho thấy người Mỹ, bao gồm cả phụ huynh học sinh từ mẫu giáo đến lớp 12, ít hài lòng hơn với trường học ngay cả nhiều năm sau khi việc đóng cửa trường học kết thúc.”
Trái ngược với các mô hình lớn hơn được WEPC trích dẫn, tỷ lệ học sinh Boston theo học tất cả các loại trường công, bao gồm cả trường bán công và trường ở các vùng ngoại ô tham gia chương trình hòa nhập tự nguyện METCO, hầu như không giảm.
Trong niên học 2024-25, tỷ lệ học sinh theo học tất cả trường công của Boston là 86,4%, cao hơn một chút so với con số của DESE năm 2005-06 và thấp hơn một chút so với con số năm 2018-19. Những thay đổi đáng kể hơn nằm ở tổng số học sinh Boston ghi danh vào tất cả các loại trường từ mẫu giáo đến lớp 12: giảm 16,5% trong 20 năm qua; 15,3% kể từ niên học 2018-19; và 4,2% kể từ niên học 2022-23.
Xe buýt trường đón học sinh bên ngoài trường Hennigan K-6 ở Jamaica Plain. (Ảnh của Chris Lovett)
Theo số liệu từ Bộ Giáo dục Tiểu học và Trung học (DESE) của tiểu bang, sự sụt giảm lớn nhất về số lượng học sinh ghi danh vào BPS từ năm 2018-19 đến năm 2024-25 là của học sinh da đen, giảm 2.572 em hoặc khoảng 16%, bao gồm cả năm trường bán công trong học khu.
Trong cùng thời kỳ ở BPS, số lượng học sinh ghi danh đã giảm đối với tất cả các nhóm chủng tộc lớn nhất, với học sinh da trắng giảm 989 em (13%) và học sinh “gốc Tây Ban Nha” giảm cùng số lượng, nhưng chỉ 4,4%. Sự sụt giảm đối với nhóm học sinh châu Á có số lượng nhỏ hơn là 873 em, nhưng gần 19% — tỷ lệ cao nhất trong bất kỳ nhóm nào.
Sự sụt giảm số lượng học sinh “gốc Tây Ban Nha” diễn ra trong bối cảnh tổng số học sinh tăng lên trong hai thập niên qua. Kể từ năm 2005-06, số lượng học sinh da đen trong các trường thuộc BPS đã giảm 11.224 em hoặc 45,7% — gần bằng với tổng số học sinh giảm chung của toàn BPS, 11.255 em (19,6%). Trùng hợp với những năm số lượng học sinh ghi danh vào các trường bán công tăng lên, con số này cũng có thể phản ánh số lượng học sinh tự nhận mình là “đa chủng tộc” ngày càng tăng. Trong cùng hai thập niên đó, số lượng học sinh da trắng giảm 16,1% và học sinh châu Á giảm 24,3%.
WEPC cũng nhấn mạnh một xu hướng khác kể từ khi bắt đầu đại dịch: sự rời bỏ trường học một cách không cân xứng ở các cấp trung học cơ sở (lớp 5-8).
“Do đó, bằng chứng từ các cuộc khảo sát cho thấy, nếu có bất kỳ điều gì, thì nhận thức của phụ huynh và cấp lãnh đạo trường học về môi trường học tập ở trường công hiện nay có thể còn tệ hơn so với một hoặc hai năm đầu sau khi đại dịch bùng phát,” các nhà nghiên cứu của WEPC cho biết. “Những lo ngại về hành vi của học sinh đặc biệt nghiêm trọng ở các trường trung học cơ sở, phù hợp với sự sụt giảm số lượng học sinh ghi danh tập trung ở các cấp lớp này. Một số phụ huynh chuyển sang trường tư hoặc tự học tại nhà có thể làm như vậy một phần để tìm cho con cái họ một môi trường học tập an toàn hơn và ít bị gián đoạn hơn.”
Tại BPS, số học sinh trung học cơ sở đã giảm 28,4% trong hai mươi năm qua, cao hơn nhiều so với con số chung cho tất cả các cấp lớp. Từ niên học 2018-2019 đến 2024-2025, theo số liệu của DESE, mức giảm là 12%, nhưng chiếm hơn một phần ba tổng số học sinh trung học cơ sở giảm trong hai thập niên qua.
Trong ba năm – từ niên học 2022-2023 đến 2024-2025 – số liệu của DESE cho thấy số học sinh ghi danh vào các trường tư và trường đạo của tiểu bang ở Boston đã tăng 22,2%, mặc dù lượng học sinh này vẫn thấp hơn tổng số trước đại dịch. Trong cùng ba năm đó, số liệu của BPS giảm 12,1%, trong khi số học sinh ghi danh vào các trường bán công ở Boston tăng 9,4% và lượng học sinh ghi danh vào các trường công ngoài học khu tăng 11%.
Phản ánh một thay đổi khác trong những năm sau đại dịch là cuộc khảo sát toàn tiểu bang được công bố vào tháng 11 năm 2023 bởi The Education Trust in Massachusetts (EdTrust), cho thấy sự khác biệt rõ ràng về chủng tộc trong kỳ vọng của phụ huynh về việc học tiếp sau trung học.
Theo cuộc khảo sát của nhóm nghiên cứu MassINC Polling Group đối với phụ huynh có con em học từ lớp 6 đến lớp 12, chỉ 37% phụ huynh gốc La tinh cho biết con em họ quan tâm đến việc theo học bằng đại học bốn năm. Đối với phụ huynh gốc La tinh có lợi tức thấp, con số này là 26%, thấp hơn nhiều so với con số của tất cả phụ huynh gốc Á (71%) và phụ huynh da trắng (59%).
“Chỉ vài năm trước đây, sinh viên gốc La tinh đã ghi danh vào các trường cao đẳng và đại học trên toàn tiểu bang với số lượng kỷ lục. Nhưng con số đó đã giảm từ 55% số lượng ghi danh vào năm 2018-2019 xuống còn 39% vào năm 2021-2022,” Bà Amanda Fernandez, Giám đốc điều hành/người sáng lập của Latinos for Education, cho biết trong một công bố của EdTrust. “Với học phí cao đẳng và đại học tiếp tục tăng mạnh – và cuộc khảo sát gần nhất này càng củng cố thêm bằng chứng cho thấy các bậc phụ huynh lo ngại về cách chi trả học phí, sách vở và các nhu cầu cơ bản – quả không có gì đáng ngạc nhiên khi các bậc phụ huynh gốc La tinh tin rằng việc lấy bằng đại học là điều không thể.”
Tuy nhiên, trong số các gia đình có lợi tức cao hơn ở Boston, sự ra đi khỏi hệ thống trường công Boston (BPS) hoặc ngay cả thành phố đã được ghi nhận trong báo cáo của Boston Indicators năm 2020. Theo các nhà nghiên cứu, từ năm 1980 đến năm 2017, thành phố đã mất gần 6.000 hộ gia đình có lợi tức trung bình có con cái, trong khi số lượng gia đình có lợi tức thấp tăng lên một chút. Số lượng gia đình có lợi tức cao có con tăng ít hơn nhiều, nhưng sự gia tăng lớn nhất là ở các hộ gia đình có lợi tức cao mà không có con.
Báo cáo năm 2020 cho thấy, từ năm 1995 đến năm 2014, tỷ lệ học sinh có lợi tức thấp trong tất cả các loại trường công ở Boston đã tăng từ 61% lên 77%. Đối với các trường thuộc hệ thống BPS trong năm học 2024-25, DESE liệt kê 70,1% học sinh là có lợi tức thấp, với 81,6% thuộc diện “Rất Cần hổ trợ”, bao gồm cả học sinh cần học thêm sinh ngữ và học sinh khiếm khuyết về học tập. Năm 2015, con số học sinh “có hoàn cảnh kinh tế khó khăn” trong BPS chỉ là 49,3%.
Sử dụng dữ liệu trước đại dịch, báo cáo năm 2020 lưu ý rằng sự ra đi của các gia đình có con khỏi thành phố diễn ra ngay cả trong những năm mà các chỉ số hiệu suất của BPS, bất chấp sự bất bình đẳng về chủng tộc, nhìn chung vẫn được cải thiện.
Năm 2012, các viên chức ở Boston đã thay đổi quy trình phân bổ học sinh của BPS qua kết hợp nhiều lựa chọn hơn cho phụ huynh với nhiều quyền tiếp cận hơn đến các trường quanh “khu phố”. Tại các cuộc họp trên khắp thành phố, các viên chức lập luận rằng thêm phạm vi lựa chọn sẽ tạo ra nhiều động lực hơn để các trường cải thiện hiệu suất, dẫn đến sự bình đẳng hơn trong giáo dục. Nhưng họ cũng thừa nhận rằng nhiều trường ít được lựa chọn nhất, bất kể hiệu suất, đều nằm ở những khu phố có phần lớn dân số chủ yếu là người da đen và người gốc La tinh. Và, như một báo cáo của Boston Indicators sau này được suy đoán, sự lựa chọn trường học cũng có thể bị ảnh hưởng bởi sự phân biệt chủng tộc.
“Với mục tiêu hướng đến theo đuổi đại học, phụ huynh ngày nay có thể đánh giá phẩm chất trường học địa phương một cách khắt khe hơn so với các thế hệ trước, bất chấp một số cải thiện đáng kể về tiến bộ của học sinh,” theo báo cáo năm 2020. “Nỗi lo lắng của họ về vấn đề này có thể khiến nhiều người cân nhắc chuyển đến sống ở vùng ngoại ô thành phố có hệ thống trường công được đầu tư tốt hơn.”
Trong một bài đăng hồi tháng 7 năm nay về những thay đổi kể từ sau đại dịch, blogger giáo dục Will Austin đã tìm thấy lý do để lo lắng của các bậc phụ huynh. Ông viết: “Giống như việc xe buýt đưa đón học sinh vào những năm 1970, các thế hệ tương lai có thể sẽ tranh luận về tác động của đại dịch đối với hệ thống trường công lập.
Chúng ta có lẽ vẫn còn quá sớm với lịch sử để hiểu, đưa ra giả thuyết hoặc suy luận… Nhưng sự phân hóa giàu nghèo ngày càng gia tăng chắc chắn đang ảnh hưởng đến học sinh, gia đình và hệ thống giáo dục hiện nay.”
Điểm số từ bài kiểm tra MCAS năm 2025 cho thấy có một ít cải thiện trong hệ thống trường công Boston (BPS) ở các lớp khởi đầu và một chút sụt giảm nói chung ở lớp 10, mặc dù kết quả vẫn thấp hơn mức trước đại dịch. Tại Upper Henderson K-12 Inclusion School ở Dorchester, tỷ lệ học sinh đạt hoặc vượt mức kỳ vọng đã giảm mạnh so với niên học 2018-19, với con số giảm đối với môn Ngữ văn (ELA) từ 43 xuống 18%, và môn Toán từ 42 xuống 14%.
Tỷ lệ chuyên cần của BPS đã được cải thiện, với tỷ lệ học sinh nghỉ học thường xuyên, tức là nghỉ ít nhất 10% số ngày học, giảm từ 42,2% xuống 33% kể từ niên học 2021-22. Nhưng con số này vẫn cao hơn so với con số của thập niên trước đại dịch, từ 24 đến 26 phần trăm.
Trong một bài đăng ngày 3 tháng 10, Austin chỉ ra rằng kết quả MCAS của một số trường BPS riêng lẻ đã vượt quá mức trung bình trên toàn tiểu bang, bao gồm cả các trường chủ yếu phục vụ học sinh có lợi tức thấp và có nhu cầu cao. Một trường nổi bật trong số các trường bán công địa phương là Excel Academy, với các cơ sở ở East Boston và Chelsea, đã “khắc phục” được những thiếu sót về học tập liên quan đến đại dịch trong môn tiếng Anh và Toán, theo Mass. Charter Public School Assn. Gần hai phần ba số học sinh của Excel là “có lợi tức thấp” và hơn 81% được DESE liệt kê là “người gốc Tây Ban Nha hoặc La tinh” và “rất cần hổ trợ”.
Austin cũng trích dẫn thêm một chỉ số giáo dục khác, từ một cuộc khảo sát dư luận trước bầu cử của Boston Globe/Đại học Suffolk vào tháng Bảy. Cuộc thăm dò cho thấy 12,6% số người được hỏi xếp “trường học/giáo dục” là vấn đề quan trọng nhất ảnh hưởng đến lá phiếu của họ — ít hơn một nửa so với con số về nhà ở và thấp hơn 4,6% so với con số về kinh tế và việc làm.
“Có lẽ điều quan trọng nhất,” Austin lưu ý, “đây là thứ hạng thấp nhất về giáo dục của cử tri Boston trong bốn kỳ bầu cử thị trưởng gần đây nhất.”
Báo cáo Boston Indicators năm 2025 đã tìm thấy những lợi thế tiềm năng của việc tập trung dân cư theo nhóm, nhưng cũng có mặt trái. “Sự phân biệt không chỉ là bối cảnh,” các nhà nghiên cứu nhận xét. “Nó ảnh hưởng đến việc ai được hưởng lợi từ các chính sách của chúng ta và ai bị bỏ lại phía sau.”
Theo Boston Indicators, sự phân hóa chủng tộc trong hệ thống trường công Boston (BPS) đã gia tăng kể từ năm 1980. Như các nhà nghiên cứu đã mô tả vào năm 2020, “học sinh da trắng và châu Á đang học cùng nhau ở nhiều trường, trong khi học sinh da đen và gốc La tinh ngày càng bị cô lập khỏi các nhóm khác.”
Lịch sử phân loại học sinh thậm chí còn kéo dài hơn đối với các trường chuyên của BPS, thông qua việc điều chỉnh tiêu chí tuyển chọn và chính sách tuyển sinh. Những thay đổi kể từ khi bắt đầu đại dịch đã làm cho số lượng thí sinh và học sinh được nhận vào trường phản ánh rõ hơn sự đa dạng về chủng tộc và kinh tế của thành phố, thậm chí làm thay đổi sự cân bằng tuyển sinh giữa các khu phố khác nhau. Nhưng những thay đổi này cũng dẫn đến sự sụt giảm số lượng thí sinh từ các tầng lớp thu nhập cao nhất của thành phố, và một số thí sinh có điểm tổng hợp cực cao – dựa trên điểm số và bài kiểm tra tiêu chuẩn hóa – lại không được nhận vào trường.
Theo đề xuất hiện tại của ban quản trị BPS, phiên bản chính sách mới nhất vẫn sẽ nhận những học sinh đạt điểm cao nhất từ các tầng lớp kinh tế xã hội khác nhau, nhưng cũng dành 20% số chỗ tại mỗi trường chuyên cho những thí sinh đạt điểm cao nhất trên toàn thành phố. Như những năm trước, cuộc tranh luận công khai gần đây về những thay đổi được đề xuất đã tập trung vào cách đáp ứng nhu cầu học tập nghiêm túc hơn mà không để những học sinh kém may mắn hơn bị loại trừ hoặc bị mắc kẹt trong một chương trình học kém thử thách hơn.
Tại phiên điều trần của Hội đồng thành phố vào ngày 29 tháng 9 về những thay đổi này, nhà hoạt động và nhà nghiên cứu giáo dục Roseann Tung đã chỉ ra mối liên hệ giữa việc tuyển sinh, kết quả thi, thu nhập hộ gia đình và nơi sinh sống của học sinh. Bà lập luận: “Các trường chuyên cấu trúc BPS thành một hệ thống giáo dục phân cấp… Và nhân khẩu học thì đúng như bạn mong đợi.”
Nghị viên toàn thành phố Julia Mejia mô tả trải nghiệm của con gái mình tại một trường chuyên, một học sinh giỏi luôn muốn chứng minh rằng mình được nhận vào trường nhờ năng lực chứ không phải nhờ công thức kinh tế xã hội.
“Tôi nghĩ rằng chúng ta quá chú trọng vào ý tưởng và ảo tưởng về sự công bằng, trong khi bạn đã có lợi thế hơn nhiều so với một số học sinh khác chỉ dựa trên nơi bạn sống, loại gia đình mà bạn lớn lên,” Mejia than thở, “vì vậy hệ thống đã không công bằng với bạn, chỉ vì bạn là ai, bạn lớn lên như thế nào và bạn sống ở đâu.”
Tại phiên điều trần tương tự, Colin Rose, cố vấn cấp cao của BPS về chiến lược và khoảng cách cơ hội, đã chia sẻ về công việc trước đây của mình trong việc giúp học sinh vượt qua khoảng cách kinh tế xã hội thông qua các chương trình thúc đẩy thành tích học tập.
“Tôi nghĩ thách thức lớn nhất là làm sao để mọi người đều nhận thấy tài năng ở các học sinh của chúng ta,” ông nói với các nghị viên trong hội đồng. “Tôi luôn nói rằng tài năng được phân bổ đồng đều, nhưng cơ hội thì không.”
Chris Lovett
Phóng viên báo Dorchester Reporter
Bản dịch của BBT/NVB
Nguồn: https://www.dotnews.com/2025/numbers-say-it-greater-boston-is-more-diverse-more-divided/ ngày 8/10/2025

Be the first to comment