Thư Số 138a Gởi Người Lính QĐNDVN: Thế Hệ Thứ Hai Trước Và Sau Ngày 30/4/1975

Tôi là người Việt Nam. Chào đời năm 1930, phục vụ quân lực Việt Nam Cộng Hòa từ ngày 12/5/1954 đến Giờ Thứ 25 ngày 30/4/1975. Sau ngày tang thương này, lãnh đạo Việt Cộng đẩy tôi vào trại tập trung trên đất Nam ngày 14/6/1975, chuyển đến trại tập trung trên đất Bắc từ ngày 16/6/1976, ra khỏi trại tập trung ngày 9/9/1987 về đến nhà ở Sài Gòn chiều ngày 12/9/1987, rời khỏi Việt Nam tháng 4/1991 tị nạn cộng sản trong đợt H05, và đang sống tại Hoa Kỳ.

Ước mơ của tôi là được trở về Việt Nam sống trên quê hương cội nguồn của mình dưới chế độ dân chủ tự do. Vì vậy mà ước mơ đó luôn thúc đẩy tôi tổng hợp các tin tức và chọn lọc vào nội dung, giúp Các Anh và những thành phần yêu chuộng dân chủ tự do có nét nhìn rộng hơn và rõ hơn, về những sự kiện trên thế giới liên quan trực tiếp lẫn gián tiếp đến mục tiêu ngăn chận tham vọng thống trị thế giới của Trung Cộng, mà Hoa Kỳ và một số quốc gia phát triển đang thực hiện. Và khi lãnh đạo Việt Cộng tự suy yếu, hoặc Trung Cộng bị suy yếu thì lãnh đạo Việt Cộng không còn chỗ dựa, đó là cơ hội cho Các Anh và toàn dân đứng lên giành lại Quyền Làm Người của mình, nối tiếp dòng lịch sử oai hùng của dân tộc từ ngàn năm trước.

Là Người Lính trong Quân Đội gắn liền với hai chữ “Nhân Dân”, phải hiểu là Các Anh có trách nhiệm bảo vệ Nhân Dân, cũng là bảo vệ Tổ Quốc, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền cũng chỉ một giai đoạn của lịch sử. Ngay cả Cộng Sản Quốc Tế là Liên Xô như đang chờ nắm quyền thống trị thế giới vô sản, đã phải sụp đổ từ đầu năm 1991 vì cộng sản là chế độ độc tài và độc ác. Liên Xô sụp đổ, kéo theo nhóm quốc gia cộng sản vùng Đông Châu Âu cùng sụp đổ.

Chưa hết, Các Anh hãy nhớ lại vào nửa thế kỷ trước đó, phát xít Đức bắt đầu chiến tranh xâm lăng Ba Lan từ tháng 10/1939 và chiếm gần hết Châu Âu, trong khi phát xít Nhật bắt đầu chiến tranh với Hoa Kỳ từ tháng 12/1941 và chiếm gần hết các quốc gia vùng Đông Nam Châu Á, nhưng đến nữa cuối năm 1945 thì cả Đức lẫn Nhật phải gục ngã -vì họ là chế độ độc tài và độc ác không thể tồn tại dài lâu- trước thế giới tự do do Hoa Kỳ dẫn đầu. Và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

Xin nói thêm cho rõ. Với những bài văn bài thơ của các tác giả ở trong nước, tôi xin sử dụng chữ viết truyền thống thay thế chữ viết thời Việt Cộng. Với những nhóm chữ tôi không hiểu, thì tôi chịu thua.

Với lá Thư này, tôi tóm lược hai bài viết liên quan đến thế hệ thứ hai trước và sau ngày 30/4/1975, giúp Các Anh thấy rõ văn hoá truyền thống Việt Nam -dù chào đời tại ngoại quốc hay sống ở ngoại quốc- tâm hồn Việt Nam vẫn nguyên vẹn là người Việt Nam chân thành và nhân ái, qua hai câu chuyện của cô gái luôn tự hào có tên “Nguyễn Thị Di Tản”, và cô gái luôn đeo “Tấm Thẻ Bài Của Cha” trên cổ đi tìm thân nhân trên quê hương cội nguồn.

Cô  gái có tên là “Nguyễn Thị Di Tản”.
Tác giả: Hoàng Thị Tố Lang, bài viết năm 2019.

Tôi họ Nguyễn. Chỉ riêng họ Nguyễn của tôi, đã chứng tỏ tôi là người Việt Nam. Nhưng lúc rời Việt Nam,  tôi chỉ là cái bào thai trong bụng Mẹ, theo Mẹ trên đường di tản. Và tôi chào đời trên đảo Guam. Từ ngày ấy, tên tôi là Nguyễn Thị Di Tản.

Đến nay là 44 năm qua, tôi đã lớn, đã trưởng thành nơi miền đất tạm dung của một tỉnh lỵ miền Tây Canada. Thành phố Winnipeg, buồn hắt hiu như tâm sự “Người Di Tản Buồn” của Mẹ tôi. Mẹ tôi rất yêu bản nhạc “Người Di Tản Buồn” của nhạc sĩ Nam Lộc.

Ngày còn bé, bằng bài hát ấy, Mẹ tôi đã ru tôi ngủ. Riết rồi tôi quen với từng lời ca tiếng nhạc. Mẹ tôi nói đêm nào không nghe bài hát ấy, thì tôi không ngủ. Đến lúc tôi bập bẹ biết nói, Mẹ tôi dạy tôi hát. Tôi vừa quấn quít bên Mẹ, vừa đỏ đẻ hát những câu cuối cùng:

Cho tôi xin lại một lần, ở nơi tôi dừng quân cũ
Cho tôi xin lại bìa rừng, nơi từng chiến đấu bên nhau
Cho tôi xin một lời chào, chào bao nhiêu người đã khuất
Cho tôi xin một mộ phần, bên ngàn chiến hữu của tôi!

Bạn bè của Mẹ đến nhà chơi, Mẹ đem “con sáo” của Mẹ ra khoe. Mẹ bắt tôi hát. Mỗi lần hát xong các bạn của Mẹ ai cũng đều rươm rướm nước mắt.
Có lần tôi thỏ thẻ hỏi Mẹ:
“Sao con hát hay mà Mẹ với các bác lại khóc?”

Mẹ ôm tôi vào lòng và nói:
Bao giờ lớn lên, con sẽ hiểu tại sao”.

Cái trí óc non nớt ngày ấy của tôi mơ hồ cảm nhận có một điều gì khác thường ở Mẹ, một cái gì mất mát lớn lao trong đời Mẹ. Những lúc rảnh rỗi, sau giờ cơm chiều Mẹ dạy tôi nói:

Con là người nước nào? 
Dạ thưa, con là người Việt Nam.
Con tên gì?
Con tên là Di Tản.
Con có yêu nước Việt Nam không?
Con yêu Việt Nam lắm, vì đó là quê hương của Con.

Tôi đã thuộc nằm lòng những câu Mẹ dạy. Tôi đã quen thuộc với cái tên Di Tản. Tôi thấy tên tôi nó ngồ ngộ, dễ thương làm sao á.

Khi tôi 5 tuổi, Mẹ dắt tôi đến trường Tiểu Học gần nhà để ghi tên đi học. Lần đầu tiên đến trường, một khung cảnh mới, người mới. Các học sinh cùng lớp với tôi hoàn toàn là những khuôn mặt xa lạ.

Cô giáo cũng thế. Lúc Mẹ chào cô giáo ra về, tôi ở lại trường với tâm trạng thật lạc lõng, bơ vơ. Tôi muốn khóc. Tôi ngồi cô đơn trong một góc lớp học. Cô giáo rất trẻ, đến bên tôi nhỏ nhẹ hỏi:
“What is your name?” (Tên con là gì?)

Tôi cúi mặt, bặm môi chừng như rướm máu, lí nhí đáp bằng cái giọng Việt Nam đặc sệt:
“Dạ … Di Tản”.

Cô giáo chừng như không hiểu, cô xem lại quyển sổ và nói:
“Your name is Đaithen”.

Tôi lắc đầu và lập lại:
“Di Tản”.

Cả lớp rộ lên cười. Và… tôi bật khóc.

Sau buổi học, Mẹ đến đón tôi về. Trên suốt quãng đường từ trường về nhà tôi lặng thinh, không nói một điều gì với Mẹ. Mẹ âu yếm hỏi tôi:
“Con đi học có vui không”.

Chừng như tôi chỉ chờ mẹ hỏi, tôi òa lên khóc, và nói:
“Sao Mẹ không đặt cho con một cái tên nào dễ kêu như Helen, như Cindy hay Linda như tụi nó, mà Mẹ đặt tên con là Di Tản. Cô giáo đọc không được tên con, mấy đứa cùng lớp tụi nó chọc ghẹo con”.

Mẹ tôi dịu dàng, từ tốn bảo:
Con có biết cả nước Canada nầy có biết bao nhiêu là Helen, là Cindy không con? Còn tên Di Tản chỉ có mỗi một mình con. Con không thấy con đặc biệt sao con. Con phải hãnh diện vì cái tên rất là Việt Nam của con mới phải”.

Tôi nũng nịu pha một chút hờn dỗi:
Mà cô giáo đọc là Đaithen Mẹ thấy có kỳ không?”

Mẹ trìu mến đưa tay vuốt tóc tôi, hiền hòa khẽ bảo:
Tại cô giáo không biết cách phát âm của người Việt Nam mình đó thôi. Con phải đọc lại cho cô biết rồi từ từ cô sẽ đọc đúng mà”.

Giọng mẹ thiết tha hơn, chùng xuống, sũng đầy nước mắt:
Mẹ đã mất tất cả rồi con ơi! Mẹ chỉ còn cái tên Việt Nam mà Mẹ gởi cho con. Con có biết như thế không?”

Đầu óc của một đứa bé lên năm, làm sao tôi hiểu được hết những gì Mẹ nói, song tôi biết Mẹ buồn lắm. Có một cái gì làm cho Mẹ khổ tâm lắm. Tôi cảm thấy ân hận. Tôi ôm Mẹ, hôn Mẹ, và nói:
“Con xin lỗi Mẹ. Con làm Mẹ buồn lắm phải không Mẹ?

Tôi thấy mắt Mẹ long lanh ngấn lệ:
“Không phải đâu con, con của Mẹ ngoan lắm”.

Đó là câu chuyện ngày tôi 5 tuổi. Mãi cho đến những năm sau này, tên tôi vẫn là một đề tài cho lũ bạn chọc ghẹo. Nhưng là cái chọc ghẹo cho vui, chớ không có một ác ý nào cả. Lúc tôi vào Highschool (Trung Học) tôi đã lớn lắm rồi. Tôi đã hiểu những u uất của đời Mẹ. Tôi thương Mẹ hơn bao giờ hết.

Thấm thoát mà tôi là cô gái 18. Soi gương tôi cũng biết mình đẹp lắm. Mẹ không cho tôi cắt tóc ngắn. Cả trường con gái, mái tóc dài chấm lưng với khuôn mặt Á Đông của tôi vẫn là một đề tài nổi bật nhất.

Lại thêm cái tên Di Tản nữa. Lúc này tôi không còn buồn mỗi lần bị giáo sư đọc trật tên. Bạn bè tôi, những đứa quen nhau từ lớp Mẫu Giáo đến giờ được tôi huấn luyện cách phát âm nên đọc tên tôi đúng lắm. Tụi nó bỏ dấu còn lơ lớ nhưng tạm được.

Nhưng mỗi lần bắt đầu một niên học mới, tên tôi lại là một tràng cười cho lũ bạn cùng lớp, mỗi khi các giáo sư mới gọi tên tôi. Giáo sư nào cũng thế. Ngập ngừng một hồi lâu rồi mới đọc.

Tôi cũng không nín cười được cái giọng như ngọng nghịu của một giáo sư người Canada, đọc một cái tên lạ quơ lạ hoắc chưa bao giờ nghe thấy. Trên tay cầm bài test của tôi, ngập ngừng rồi vị thầy gọi “Đai then”..

Cả lớp ồ lên một loạt “Oh, my god”. Vị giáo sư lúng túng, đảo mắt nhìn quanh lớp. Cả lớp nhao nhao lên như bầy ong vỡ tổ. Chừng như tụi nó thích những dịp như thế để câu giờ, “nhứt quỉ, nhì ma, thứ ba học trò” mà. Con Linda ngồi cạnh, hích nhẹ cùi chỏ vào tôi và khẽ bảo:
“Di Tản, ổng đọc sai tên mầy rồi kìa, mầy sửa cho ổng đi”.

Tôi đỏ mặt. Tôi chưa kịp nói gì cả thì tụi con trai ngồi sau lưng tôi ào ào lên như chợ nhóm “Di Tản, Di Tản not Đai then”. Vị giáo sư lúc đó mới vỡ lẽ ra, mới biết là mình phát âm sai, ông gục gặc đầu nói lời xin lỗi và lập lại “Di Tản, Di Tản”.

Lúc nầy tôi không còn nhút nhát như ngày xưa nữa. Bạn bè tôi Tây, Tàu, Gia Nã Đại, đều “cứu bồ” mỗi lần có tình trạng như trên vừa xảy ra. Dần dà mọi người gọi tên tôi rất ư là dễ thương. Đến bây giờ nhớ lại những lời mẹ nói với tôi ngày nào, tôi hãnh diện vô cùng về cái tên mẹ đã cho tôi. Tôi thương mẹ vô cùng.

Quê hương Việt Nam gắn liền với mẹ tôi như hình với bóng trong cuộc đời lưu lạc xứ người hơn một phần tư thế kỷ. Một điều mà tôi có thể khẳng định rằng, “dù hoàn cảnh có thể tách rời mẹ ra khỏi quê hương, nhưng không một hoàn cảnh nào tách rời quê hương ra khỏi tâm hồn mẹ được”.

Mẹ sống như chờ đợi, như mong mỏi một điều gì sẽ đến. Có lần tôi bắt gặp mẹ ngồi một mình trong đêm, tay mân mê, vuốt ve bức ảnh bán thân của Cha tôi. Mẹ vẫn nuôi hy vọng Cha còn sống và sẽ có lần gia đình tôi lại đoàn tụ như xưa. Nhưng định mệnh đã an bài. Sau khi nhờ một người bạn làm ở USAID đưa mẹ con tôi di tản, Bố hứa Bố sẽ gặp lại mẹ sau.

Vậy là, mẹ bụng mang dạ chửa lên phi cơ, theo đoàn người di tản, và mong có ngày gặp lại Cha.

Nhưng niềm hy vọng đó đã vơi dần theo năm tháng cho đến một ngày mẹ được tin Cha đã nằm xuống nơi trại tập trung cải tạo. Cuộc sống của Mẹ đã thầm lặng từ lâu nay, từ nay Mẹ càng thầm lặng hơn nữa.

Ngoài giờ ở sở, về nhà cơm nước xong, trò chuyện với tôi đôi lát rồi Mẹ vào phòng. Cái khoảng đời quá khứ ngày xưa. Những kỷ niệm ngọc ngà ngày nào của Cha và Mẹ, như chút dấu yêu còn sót lại.

Mỗi lần nhắc tới Cha, Mẹ như trẻ lại. Mắt Mẹ long lanh ngời sáng. Mẹ kể cho tôi nghe chuyện tình của cô sinh viên Văn Khoa với chàng Sĩ Quan Hải Quân.

Tôi thuộc nhiều bài hát Việt Nam lắm, nên tôi ghẹo Mẹ:
“Mẹ và Cha, giống em hậu phương và anh nơi tiền tuyến quá”.

Ngoài tình mẹ con ra, tôi như một người bạn nhỏ để Mẹ tâm sự, để Mẹ trang trải nỗi niềm nào là “con biết không Cha con hào hoa và đẹp trai lắm”… v.v… và v..v…
Tôi nịnh Mẹ:
Cha không đẹp trai làm sao cua được Mẹ”.

Mẹ cười thật dễ thương. Một điều mà tôi biết chắc chắn rằng không ai có thể thay thế hình bóng Cha tôi trong tim Mẹ tôi. Tôi muốn cùng Mẹ nâng niu, gìn giữ những kỷ niệm dấu yêu, ngọc ngà của Mẹ và Cha cho đến suốt cuộc đời.

Hôm nay, nhân ngày giỗ lần thứ 44 của Cha, Con muốn thưa với Cha một điều.

Con cám ơn Cha Mẹ đã tạo cho con nên vóc nên hình. Dù chưa một lần gặp mặt Cha. Cha đã nằm xuống. Cha đã đi thật xa, không có lần trở lại với Mẹ, với con. Song, với con, Cha vẫn là một hiện hữu bên con từng giờ, từng phút.

Con nghĩ Cha đã che chở Mẹ con và con hơn một phần tư thế kỷ nay. Xin Cha hãy giữ gìn, che chở Mẹ trong suốt quãng đời còn lại. Con mong làm sao ngày nào đất nước thật sự thanh bình. Mẹ sẽ đưa con trở về thăm lại quê hương. Con sông xưa sẽ trở về bờ bến cũ.

Ngày ấy ở một phía trời nào đó của quê hương, Con thấy Cha mỉm cười và nói với con: “Cha sung sướng lắm, con biết không? Con yêu dấu!”

* * *

Cô gái luôn đeo “Tấm Thẻ Bài Của Cha”.

Câu chuyện bắt đầu vào sáng ngày 23/3/1975 tại bãi biển Chu Lai tỉnh Quảng Tín.

Sau khi chồng và con trai bị chết vì đạn pháo kích của Việt Cộng, còn đứa con gái bị thất lạc khi di tản tại bãi biển Chu Lai, Quảng Tín, chị Buôn tất bật chạy khắp nơi để hỏi thăm về đứa con gái của mình… chị được một người chạy nạn cho biết:

“Tôi thấy con bé khoảng 9 hay 10 tuổi mặc cái áo xanh, quần đen, cổ có đeo cái thẻ bài của lính là con chị hả? Nó được một người trên ca-nô nhào xuống nước, bơi vào và vớt nó đưa lên ca-nô ra tàu lớn rồi. Thật là may mắn cho nó!”…

Lệ, đứa con gái thất lạc của chị Buôn được đưa lên tàu Hải Quân với chiếc thẻ bài đeo tòng teng nơi ngực. Người ta thấy có khắc tên: Lê văn Buôn Số quân …. Họ hỏi Lệ. Lệ nói: “Đó là tên của Ba tôi. Ba Má tôi và ba đứa em bị kẹt lại ở bãi biển Chu Lai”.

Mới đầu Lệ sụt sùi khóc, nhưng có người đàn bà ngồi gần bảo nó khóc không ích gì. Nó cắn răng nghe lời bà này, làm theo những gì người ta chỉ bảo. Tiếng nổ làm cho nó ù tai nhưng cái sợ làm nó quên cả. Kể từ lúc quả lựu đạn nổ, nó gần như mê đi cho đến khi có người vớt nó đưa lên ca-nô rồi lên tàu. Người vớt nó lên ca-nô và đưa nó lên tàu, nhận nó là con nuôi là Thiếu Uý Hải Quân.

Anh tên Lê Trọng Nghĩa, 28 tuổi, quê quán ở Thủ Dầu Một, phục vụ tại Giang Đoàn 240 hoạt động ở miền Trung.

Chiếc tàu đưa Nghĩa và đứa con nuôi là Lệ về đến bến Bạch đằng Sàigòn vào đầu tháng 4/1975, đang lúc Sàigòn lên cơn sốt y như miền Trung mấy tuần trước. Nghĩa đưa Lệ đến gửi tại nhà vợ một người bạn trong trại sĩ quan ở bến Bạch đằng, Nghĩa gởi tiền và nhờ Xuân Hà -tên vợ người bạn- đi mua sắm quần áo và những thứ cần thiết hằng ngày cho Lệ.

Xuân Hà nhìn Nghĩa rồi nhìn Lệ, và hỏi nhỏ Nghĩa: “Con bé xin được ở đâu mà xinh quá vậy? Tốn vài tạ gạo nữa là sẽ ra dáng tiểu thư rồi. Anh lựa hay lắm.”

Nghĩa nghiêm nét mặt bảo Xuân Hà: “Chị đừng nghĩ vậy. Ba má nó và ba đứa em còn kẹt lại Chu Lai. Chỉ có mình nó được tôi cứu lên tàu. Tôi nhận nó làm con nuôi đó.”

Xuân Hà tính đùa thêm một câu, nhưng thấy mặt Nghĩa lạnh như tiền nên không dám cợt nhả nữa.

Ngày 28/4/1975, Nghĩa lại mang Lệ lên một chiến hạm Hải Quân để chạy sang Guam. Nghĩa con một, cha mẹ Nghĩa đã lớn tuổi, muốn sống và chết ở Thủ dầu Một nên không đi mặc dù trong thời gian ở Sàigòn, Nghĩa đã về thăm và mời ông bà đi.

Sau 5 tháng ở trong trại tạm cư ở Guam, Nghĩa và Lệ được một nhà thờ bảo trợ đi định cư tiểu bang South Carolina. Từ đây, Nghĩa xin Basic Grant của tiểu bang để vào Đại Học học Kỹ Sư Cơ Khí.

Ngoài giờ học, Nghĩa đi làm part time để có tiền chi phí ăn ở cho hai cha con. Nghĩa xin cho Lệ vào học ở trường tiểu học địa phương, có xe bus nhà trường đưa đón mỗi ngày, và ăn sáng, ăn trưa miễn phí vì hai cha con Nghĩa chưa có lợi tức.

Nghĩa chỉ thêm bài vở cho Lệ mỗi buổi tối sau khi cơm xong. Lệ thông minh nên học rất nhanh. Để giúp ba Nghĩa, nó biết đặt nồi cơm điện, luộc rau, luộc trứng, làm những món giản dị rồi chờ ba Nghĩa về ăn cơm.

Mặc dầu vào ngang thiếu căn bản 4 lớp đầu (học trình Hoa Kỳ), nhưng Lệ đã học xong lớp 5 Việt Nam, Lệ học lại với Ba Nghĩa và một cô giáo Mỹ dạy kèm tất cả những gì cần thiết chưa được học ở các lớp dưới, nhất là Anh ngữ, vì vậy Lệ tốt nghiệp Trung học lúc mới 17 tuổi với điểm trung bình 4.0, một thành tích vượt mức ngay với học sinh bản xứ.

Nhiều lúc Lệ nhớ ba má, nhớ các em day dứt nhưng nghe ba Nghĩa khuyên, Lệ phải cố quên. Lệ cũng nghĩ và tự nhủ lòng, có khóc, có nhớ ba má và các em cũng không làm được gì, chỉ cản trở việc học. Đã từng ở trong cảnh nghèo của cha mẹ ở Việt Nam, Lệ biết được đi học thế này là một diễm phúc, vì vậy Lệ cố gắng và chăm chỉ hết mức.

Ba Nghĩa cũng khuyên Lệ, sau này có thể có bang giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, khi ấy Nghĩa sẽ tìm cách hỏi thăm tìm ra tung tích ba má và các em Lệ. Lệ nghe thế nên tạm yên lòng và hy vọng.

Lệ vào trường Đại Học Y Khoa South Carolina. Sau 3 năm, Lệ lấy Cử Nhân Sinh Vật Học với lời khen của Hội Đồng Giám Khảo. Lệ chuyển qua học ngành Nhãn Khoa (Opthalmology). Năm 1990, Lệ đậu bằng Bác Sĩ Nhãn Khoa hạng tối ưu với lời ngợi khen của Ban Giám Khảo. Lệ được mời dạy môn Nhãn Khoa cho sinh viên cùng trường.

Lệ hỏi ý kiến ba Nghĩa, sau đó Lệ xin khất cho đến khi trở về từ Việt Nam.

Tốt nghiệp xong, Lệ bàn với ba Nghĩa -lúc này đã có vợ và một đứa con trai 2 tuổi- xin về Việt Nam tìm cha mẹ, và Ba Nghĩa đồng ý. Lệ đi mua vé máy bay về Việt Nam tìm cha mẹ và các em.

Sau hơn 10 năm bế quan toả cảng cả nước sắp chết đói, nên từ năm 1985, cộng sản Việt Nam bắt buộc phải mở cửa cho kinh tế thị trường, nên cũng dễ dàng cho Lệ đi lại. Lệ và một cô bạn thân về đến Chu Lai vào một buổi chiều mùa Hạ năm 1990, sau khi đã lặn lội đi bằng đủ thứ xe từ Sàigòn ra miền Trung.

Sau 15 năm, quang cảnh cũ đã thay đổi nhiều. Có những căn nhà mới mọc lên nhưng cũng có nhiều căn trại cũ biến mất. Chỉ có bãi biển, trông vẫn như trước mặc dù có nhiều hàng quán mọc lên bán thức ăn, thức uống cho du khách.

Trại Gia binh ngày nào không còn. Lệ muốn được gặp lại những người hàng xóm của ba má Lệ ngày xưa như vợ chồng bác Sáu, vợ chồng chú Đàm, vợ chồng cô Bé, để hỏi thăm về cha mẹ và các em nhưng đi quanh quanh làng xóm, Lệ không tìm thấy một người quen cũ.

Lệ đeo cái thẻ bài vào cổ như ngày 23/3/1975 ở bãi biển Chu Lai, nhà nào Lệ cũng vào hỏi thăm và cho con cái họ quà bánh Lệ đem theo từ Hoa Kỳ về, giơ chiếc thẻ bài cho họ coi và hỏi thăm xem có ai biết ba má và các em Lệ không?

Nhưng tuyệt nhiên không ai biết. Vốn đã có định kiến, Lệ xin phép nhà cầm quyền địa phương, không quên quà cáp cho họ, để mở phòng mạch khám mắt miễn phí cho mọi người.

Một nữ bác sĩ Hoa Kỳ, cô Ruthie O’Brien, bác sĩ gia đình, vốn là bạn thân và cùng ra trường một ngày với Lệ, cùng đi với Lệ về chơi thăm miền Trung Việt Nam, nhân dịp cũng bỏ đồ nghề ra khám bệnh và cho thuốc cùng những lời khuyên hữu ích để phòng ngừa bệnh tật.

Các gia đình đến khám mắt và khám tổng quát, nhất là những ông già bà cả đều được hỏi về Trung sĩ Lê văn Buôn, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 1, Sư đoàn 2 Bộ binh vào tháng 3 năm 1975 nhưng không một ai biết. Mỗi buổi chiều khi khám bệnh xong, Lệ và Ruthie thường ra bãi biển Chu Lai ngồi ngắm sóng và ngắm hoàng hôn trên biển, nghe những tiếng rì rào của sóng biển chạy vào bờ rồi lại trườn ra xa.

Thấy bạn buồn vì không tìm ra gia đình, Ruthie lựa lời khuyên nhủ và hỏi Lệ có còn muốn đến nơi nào khác để kiếm không? Lệ nghĩ chỉ có hai nơi khác ba má Lệ có thể ở là Nha Trang quê của ba, và Trà Vinh quê của má. Lệ nói cho Ruthie nghe những nơi Lệ hy vọng nhiều nhất, sau đó Ruthie khuyên Lệ nên đi Nha Trang.

Nha Trang không hứa hẹn nhiều cho việc tìm kiếm, vì Lệ đã đến đây gần một tuần, đi khắp nơi hỏi nhưng không ai biết cựu Trung sĩ Lê văn Buôn và vợ con. Lệ thất vọng hoàn toàn, thầm nghĩ chỉ còn một nơi nữa là Trà Vinh. Nếu tại Trà Vinh cũng không có tung tích thì coi như gia đình Lệ đã bị tiêu tán trong hoặc sau ngày 23/3/1975. Nghĩ đến đó, Lệ cảm thấy buồn muốn khóc…

Ba má và các em đi hết chỉ để lại mình con thôi sao, thế thì con có sống cũng mang mối u hoài đau khổ ấy suốt đời! Thà con ở lại nhà chia sẻ những đau khổ với ba má và các em rồi chết chung một huyệt cũng là xong một kiếp người. Lệ buồn khôn tả và khóc mỗi đêm, nhưng không dám cho Ruthie biết.

Một buổi sáng, Lệ cùng Ruthie mướn một chiếc xe hơi với tài xế để đi thăm Hòn Chồng, nơi thắng cảnh đẹp có tiếng của Nha Trang. Thật ra Lệ không còn tâm trí đâu ngoạn cảnh vì “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” nhưng để chìu Ruthie, Lệ cho Ruthie đi nơi này nơi kia chụp hình lưu niệm và dọc đường có thể tìm vào các quán ăn ngon, các khách sạn sang trọng mướn phòng ngủ qua đêm.

Lẽ ra trong chuyến đi này, Lệ mang theo vị hôn phu là Bác Sĩ Vĩnh Quang Dũng, chuyên khoa bệnh tiêu hoá, tốt nghiệp trước Lệ 3 năm và hai người quen nhau khi cùng làm việc trong một bệnh viện nhưng Dũng phải đi Á Căn Đình dự Đại Hội Y Khoa Thế Giới về bệnh tiêu hóa, đại diện cho Bộ Y Tế Hoa Kỳ. Còn vị hôn phu của Ruthie có cha già đang nằm bệnh viện chữa trị bệnh tiểu đường, nên anh cũng không thể theo Ruthie đi du lịch Việt Nam được.

Sau khi đã dạo chơi bãi biển hơn hai tiếng đồng hồ, Lệ đề nghị tài xế chở vòng qua con đường phía sau, nơi đây lưa thưa có dăm cái nhà trên bãi cỏ hoang. Phong cảnh quá tiêu sơ và u buồn, không có bóng một đứa trẻ.

Lệ và Ruthie bàn với nhau đi xuống cuối con đường rồi trở lại, trở về thành phố Nha Trang. Mới đi thêm một khoảng ngắn, đột nhiên chiếc xe bốc khói ở máy. Tài xế vội cho xe ngừng lại và kiểm soát máy thấy máy cạn khô không còn một giọt nước. Anh ta hoảng hồn tắt máy và ngơ ngáo đi tìm xung quanh để kiếm nước châm vào máy.

Đó đây, ngoài con lộ đắp bằng đất đỏ thì toàn là gò đống và bụi cây mọc lưa thưa, tít tắp xa mới thấy vài mái tranh hiện trên nền trời xanh lơ. Lệ và Ruthie phải ngồi chờ dưới gốc cây cho bớt nắng trong khi bác tài lội bộ đi tìm nước.

Chợt Lệ trông thấy một đám người lố nhố trên một cái gò, cách xa Lệ khoảng 400 thước. Lệ chợt nghĩ, hay là họ đào huyệt chôn người chết như hồi còn bé Lệ đã thấy ở Chu Lai, nhưng sao không nghe tiếng khóc cũng không thấy quan tài.

Trí tò mò thúc đẩy Lệ vào đó coi xem sao. Lệ cũng có ý nghĩ giúp đỡ công việc họ đang làm, nếu họ quá nghèo, cần đến một, vài chục mỹ kim của Lệ. Lệ nói cho Ruthie nghe ý nghĩ của mình, bảo Ruthie ngồi đó chờ mình nhưng Ruthie không chịu, đứng lên cùng đi với Lệ. Hai cô gái cứ tưởng gần và ruộng khô, nào ngờ coi vậy nhưng khoảng cách khá xa và có những chỗ nước ngập mắt cá, hai cô phải tháo giầy cầm trên tay để đi.

Khoảng sáu, bảy người vừa đàn ông, đàn bà, thanh niên, thiếu nữ cắm cúi nhìn vào một cái lỗ huyệt đang đào do 4 thanh niên khoẻ mạnh, người cầm xẻng xúc đất đổ vào mê tre, kẻ bê đất đổ lên bờ, để dần dần hiện ra tấm nắp thiên bằng gỗ đen sì một cái quan tài.

Từ xa lội tới, hai cô gái đã bị những cặp mắt tò mò của đám người trên gò nhìn thấy và theo dõi. Khi hai cô tới gần, tất cả đều ngừng tay nhìn chằm chằm như nhìn một hiện tượng lạ. Họ quá lạ lùng bởi từ xưa đến nay chưa có người ngoại quốc nào ăn mặc đẹp đẻ thế kia – đám người cho rằng cả hai cô là gái Mỹ, Pháp, Anh, Úc gì đó, lại lội ruộng vào cái gò này để coi cải mả.

Phải, họ đang cải mả. Họ đào cốt người thân chết đã lâu năm, bỏ sang một cái tiểu sành, kiếm chỗ thuận tiện, gần gũi hơn đặt xuống. Lệ mở lời khi nhìn một người đàn bà lam lũ, già yếu, mặt mày nhăn nheo:
“Chào các bác, các chú, các anh, các chị. Cháu là người Việt sống tại Hoa Kỳ về thăm quê hương. Các bác, các chú đang cải táng cho thân nhân, phải không ạ?”

Nghe cô con gái nói tiếng Việt, cả đám người thật ngạc nhiên. Sao cô gái trông như Mỹ này, chỉ khác mớ tóc đen, lại là người Việt, nói tiếng Việt thạo quá. Họ bỏ xẻng cuốc đứng vây xung quanh hai cô gái. Người đàn bà lớn tuổi trả lời:
Phải, người ở dưới huyệt là chồng tôi, chết từ năm 1975.”

Lệ nghe giọng nói người đàn bà có điều ngờ ngợ nhưng chưa dám tin là mình có thể đúng. Nhân tiện, cứ hỏi thăm xem có ai biết được ba mình không? Lệ chìa tấm thẻ bài đeo trong ngực áo ra cho họ coi, nói:
“Tấm thẻ bài này của ba tôi. Tôi không biết gia đình ông còn sống không và nay ở đâu. Ông tên là Trung sĩ Lê văn Buôn.”

Người đàn bà trân trối nhìn Lệ xong ngập ngừng nói:
Thế này thực không phải. Xin lỗi… Có phải tấm thẻ bài này của lính Việt Nam Cộng hoà và cô là …Lệ phải không?”

Điều Lệ nghi ngờ đã đúng. Giọng nói người đàn bà và nhìn kỹ từ đầu đến chân, Lệ thấy đúng là má Lệ, không còn sai vào đâu được. Lệ ôm chầm lấy bà khóc rưng rức:
Má ơi! Con đây, Lệ của má đây. Má còn nhận ra con không?”

Bà Buôn, người đàn bà đó chính là vợ goá của Trung sĩ Lê Văn Buôn, càng ôm chặt Lệ hơn.

Bà rên rỉ:
Lệ ơi, má đâu có ngờ Trời Phật còn cho gia đình mình ngày hôm nay. Người nằm dưới huyệt kia chính là ba con đó. Quả lựu đạn ngày 23/3/1975 đã giết ba và thằng Chưởng. Còn lại hai đứa đứng kia, thằng Tung, con Bi giờ đã lớn từng đó.”

Lệ quay ra ôm hôn đứa em gái và thằng em trai. Chúng cũng xúc động, nhưng không xúc động bằng má Lệ và Lệ vì khi xẩy ra biến cố tan nát gia đình, chúng còn quá nhỏ.

Bà Buôn hỏi Lệ:
Con đeo tấm thẻ bài này 15 năm nay để đi tìm ba má và các em phải không?”
“Dạ, đúng thế má. Con đi tìm ba má và các em vì con đâu biết ba đã hy sinh ngày hôm đó.”

Ruthie đứng ngó mấy mẹ con ôm nhau cũng xúc động nhưng trong ánh mắt cô đọc thấy những tia sáng hân hoan vô bờ của bạn và của mẹ của bạn. Chuyến đi hoàn toàn thành công quá sức mong mỏi, cô lẩm bẩm.

Bốn thanh niên lại tiếp tục đào. Họ cậy tấm nắp thiên. Bộ xương người đen sì lõng bõng nước.

Ruthie nhìn thấy sợ quá phải đứng tránh ra xa. Cô đã quen với xác chết trong các bệnh viện nhưng không phải là bộ xương đã rữa mục này.

Lần đầu tiên Lệ nhìn thấy bộ xương cải táng nhưng Lệ không sợ, mà Lệ muốn đứng thật gần để nhìn cho rõ hình hài của người cha đã sinh ra mình.

Khi má Lệ hỏi Lệ vì sao biết mà vào đây. Lệ thuật lại từ đầu tới cuối, vì sao xe phải ngưng lại, bác tài xế phải đi kiếm nước đổ vào máy xe để đi tiếp v.v…

Bà Buôn thắp lên mấy cây nhang và hai ngọn nến, trong khi mấy người đàn ông đổ rượu trắng ra cái chậu sành và rửa từng khúc xương cho sạch, lấy giấy bản lau khô xong xếp vào một cái tiểu sành mầu đất nung đỏ quạch.

Trong số người lo chuyện cải táng, có chú Năm thợ hồ có nhiều kinh nghiệm. Chú vừa làm vừa chỉ dẫn cho mấy anh thanh niên làm. Chú nói:
Tôi học nghề cải táng từ năm mới 16 tuổi mà năm nay đã 55, coi như 39 năm trong nghề mà tôi chưa thấy một vụ nào lại linh thiêng như Trung Sĩ Buôn đây.

Nghe cháu Lệ vừa nói thì cháu đã để tâm tìm ba má cháu nhiều năm nhưng không ra tung tích; đến bữa nay hồn thiêng Trung Sĩ dun dủi làm cho chiếc xe hơi đang chạy ngon lành bỗng hết nước ở ngay khúc đường này, xe bốc khói xuýt cháy máy và từ đó cháu Lệ mới có cơ hội lặn lội vào cái gò này vì tính tò mò và cũng vì tính thương người, muốn giúp đỡ người nghèo. Vì thế mà Trời Phật không bỏ cháu.”

Bác tài xế đã lặn lội đi xin được một bình nước đổ vào xe.

Thay vì hai thanh niên phải khiêng chiếc tiểu sành, giờ này chiếc tiểu sành được bỏ lên xe, mọi người về nghĩa trang gần nơi cư ngụ của gia đình bà Buôn. Nghe Lệ kể sơ lược từ lúc được ba Nghĩa nuôi vớt lên tàu và được học hành ở Hoa Kỳ, hiện đã là một bác sĩ Nhãn Khoa Hoa Kỳ, tiền bạc dư dã, tương lai sáng lạn, bà Buôn quá sung sướng lại khóc. Bà chạnh lòng nghĩ đến người chồng bạc phước đã chẳng được sống thêm để nhìn thấy sự thành công của đứa con gái ông yêu quý nhất đời.

Huyệt mộ cho cái tiểu sành đựng nắm xương của người cha bạc số của bác sĩ Vivian Le đã đào xong, nhỏ và nông nên đào rất nhanh. Lần này nó không nằm trên gò đất chung quanh là sa mạc sỏi đá, cây cỏ hoang vu mà ở trong một nghĩa trang đẹp đẽ bên ngoài thành phố Nha Trang. Khoảng 4 giờ chiều, mọi việc hoàn tất, bà Buôn, Lệ và hai đứa em của Lệ thắp hương, sụp quỳ, vái lậy, khấn khứa.

Lệ cố hết sức giữ cho khỏi quá xúc động nhưng khung ảnh trắng đen của cha Lệ trước mặt lúc nào cũng như đang nhìn Lệ âu yếm làm Lệ tràn nước mắt và cái ngày độc địa 23/3/1975, tại bãi biển Chu Lai, lại hiện rõ mồn một như Lệ đang đứng sát bên cha Lệ, bám vào tay ông cho khỏi sóng đánh ra xa.

Nỗi buồn năm xưa dù chưa quên được nhưng hiện tại vẫn là đáng sống. Mẹ con bà Buôn đành phải khép lại trang sử đẫm máu của gia đình và của xóm giềng, thân thuộc để xây dựng ngày mai tươi sáng hơn.

Lệ đã đưa tiền cho má và em đi chợ mua các thức ăn về làm một bữa cơm đãi đằng chòm xóm và những người thân thuộc, trả công hậu hỉnh cho những người cải táng hôm đó. Ai cũng tấm tắc khen sao lại có cái thần giao cách cảm đó để mà đến đúng chỗ, đúng lúc, gặp lại mẹ và em, và nhìn được hài cốt của cha. Chuyện thật khó tin, nhưng hoàn toàn thật ngay trước mắt.

Lệ có nghề nghiệp cao và lợi tức vững vàng, lại là công dân Hoa Kỳ, nên hai năm sau thì bà Buôn và Tung, Bi đoàn tụ với Lệ ở Hoa Kỳ.

Bà Buôn lập một bàn thờ, một bên để di ảnh cuối cùng của thằng Chưởng khi nó 3 tuổi, một bên treo tấm thẻ bài, ở giữa bàn thờ là bát hương, có bài vị và di ảnh đen trắng của Trung Sĩ Lê Văn Buôn, người Chiến sĩ kiêu dũng Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh vì Tổ Quốc, người chồng, người cha thân yêu vẫn luôn luôn như đang mỉm cười với vợ và các con!

Đây là câu chuyện thật mà người viết đã lấy từ bài viết “Tấm Thẻ Bài”.

Kết luận.

Từ bản chất bành trướng của cộng sản, cộng với mục tiêu thống trị thế giới mà lãnh đạo Cộng Sản Quốc Tế là Ông Khrushchev, đã tuyên bố trong Đại Hội Cộng Sản Quốc Tế vào tháng 11/1960, rằng: 

“Khi một đảng cộng sản tham gia vào cộng sản quốc tế -tức Liên Xô- phải chấp nhận Liên Xô là quốc gia số một -tức lãnh đạo- Người cộng sản và giai cấp công nhân, sẽ đấu tranh để đạt tới mục tiêu vĩ đại là chủ nghĩa cộng sản sẽ thống trị thế giới

Đảng Cộng Sản Việt Nam là một Chi Bộ của Quốc Tế Công Sản, vì vậy mà đảng phải lừa dối dân đẩy người dân nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (miền Bắc Việt Nam) vào cuộc chiến xâm lược Việt Nam Cộng Hòa theo lệnh của Quốc Tế Cộng Sản, mà ông Tổng Bí Thư Việt Cộng Lê Duẫn đã nói: “… Ta đánh đây là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc”…

Rồi đến Tổng Bí Thư Việt Cộng Nguyễn Văn Linh đã nói trước khi dự hội nghị  Thành Đô hồi tháng 9/1990: “Tôi cũng biết rằng, dựa vào Trung Quốc sẽ mất nước, nhưng thà mất nước còn hơn mất đảng”.

Rõ ràng là các nhóm lãnh đạo Việt Cộng từ năm 1945 đến nay là 2023 chỉ là tay sai của Cộng Sản Nga rồi Cộng Sản Tàu, họ lần lượt lừa dối dân tộc Việt Nam để biến người dân thành một thứ phương tiện đa dụng để bảo vệ đảng chớ không cần Tổ Quốc, còn chuyện lo cho dân chỉ là chuyện đầu môi chót lưỡi cho dân nghe xuôi tai vậy thôi.

Các Anh nhớ lại xem, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi lãnh đạo Việt Cộng nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam, người dân Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi bị hành hạ đến chết trong hằng trăm trại tập trung từ Bắc chí Nam suốt 17 năm ròng rã, đẩy hằng triệu thân nhân chúng tôi đến các khu kinh tế mới hoang vắng, để họ chiếm hết nhà cửa tài sản của chúng tôi, không cho các con chúng tôi vào đại học, cũng không cho đi làm dù là công nhân giặt ủi, khiến cho người dân Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi kinh hoàng vì lòng thù hận của họ, nên phải vượt lên sự chết để đi tìm sự sống. Ngay cả người dân xã hội chủ nghĩa miền Bắc  Các Anh, cũng cùng vượt biển với người miền Nam chúng tôi, vì quá sức chịu đựng!

Và theo tài liệu của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc phổ biển vào tháng 6/2000, thì trong 20 năm -từ 1976 đến 1995- đã có 839.200 người vượt biên vượt biển đến tị nạn chính trị tại 91 quốc gia tự do khắp Đông Tây Nam Bắc địa cầu, và Liên Hiệp Quốc ước lượng khoảng 400.000 đến 500.000 người đã chết mất xác trên biển và trong rừng, trên đường chạy trốn cộng sản! Đây là cuộc “bỏ phiếu bằng chân bầu chọn” chế độ Dân Chủ Tự Do.

Với hai câu chuyện bên trên, của Cô Nguyễn Thị Di Tản khi rời Việt Nam bằng phi cơ chỉ là bào thai trong bụng mẹ, và Cô Lê Thị Lệ theo “cha nuôi” rời Việt Nam trên chiến hạm chỉ là cô gái 10 tuổi. Theo thời gian, hai cô gái bé bỏng ngày nào, đã lớn dần lên và thành đạt trong học đường tại Canada, tại Hoa Kỳ, mà vẫn nguyên vẹn tâm hồn Việt Nam. Thật là ngưỡng mộ.

Vậy, Các Anh hãy đứng lên, cùng đứng lên, dân tộc sẽ đứng lên cạnh Các Anh, cùng giành lại Quyền Làm Người của mình. Các Anh không đứng lên, sẽ không bao giờ có quốc gia nào đến Việt Nam giành lại Quyền Làm Người giùm Các Anh đâu.

Và Các Anh phải hiểu rằng, Dân Chủ Tự Do không phải là quà tặng, mà chính dân tộc Việt Nam phải tranh đấu, và Các Anh là thành phần nòng cốt trong cuộc tranh đấu này”, trong khi Cộng Đồng chúng tôi tị nạn Việt Cộng tại hải ngoại có nhiều điều kiện thuận lợi, với nhiều cách vận động những quốc gia phát triển giúp Các Anh và đồng bào làm nên lịch sử.

Texas, ngày 8 tháng 4 năm 2023
Phạm Bá Hoa

Be the first to comment

Leave a Reply

Your email address will not be published.


*