Phạm Duy, Người Đi Cùng Mệnh Nước Ngược Xuôi

 Phạm Duy & Cung Tích Biền

LTS: Trải dài suốt mấy thế hệ, từ thời kháng chiến chống Pháp, cuộc chiến hai mươi năm, và rồi tha hương, tên tuổi Phạm Duy luôn luôn gắn bó với tình tự dân tộc, là một huyền thoại trong khu làng âm nhạc, văn nghệ Việt Nam. Hiếm ai trong chúng ta không cảm thấy lòng dạt dào yêu quê Mẹ Việt Nam hơn khi nghe nhạc và ca từ của Ông. Cả một cuộc đời dài sáng tác, Ông đã để lại cho đời sau một gia sản tinh thần khổng lồ với “ngàn lời ca” mà có lẽ trước và sau Ông khó ai bì kịp.

Đúng ngày này 10 năm trước, ngày 27 tháng 1 năm 2013, người nhạc sĩ nổi trôi cùng mệnh nước 93 năm đã kết thúc cuộc hành trình “trên đường về nơi cõi hết”. Nhân ngày giỗ Ông năm thứ 10, Việt Báo hân hạnh đăng tải dưới đây loạt bài của nhà văn Cung Tích Biền. Loạt bài gồm 4 phần, mỗi phần là cái nhìn ở mỗi chặng đường soi giọi bước chân của người nhạc sĩ.

Nhà văn Cung Tích Biền không viết những lời ca ngợi hay chê bai, việc đó đã có không ít người làm rồi, ở đây ông chỉ viết lên những cảm nhận, suy nghĩ, những tâm tình của riêng ông với người nhạc sĩ.

Pham-Duy

Chương một: Một cái nhìn chung về Phạm Duy

Nhạc sĩ Phạm Duy, tên khai sinh Phạm Duy Cẩn, chào đời vào năm 1921, tại Phố Hàng CótHà Nội. Bấy giờ Hà Nội thuộc Xứ Bắc Kỳ, một trong năm xứ của Đông Dương thuộc Pháp [Việt, Miên, Lào]. Riêng nước Việt để dễ cai trị, người Pháp chia làm ba  Xứ – Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, mỗi xứ có ranh giới riêng, thể chế cai trị và guồng máy hành chính rất khác biệt nhau.

Thời Pháp thuộc, Nước Annam là tên được gọi thay cho Việt Nam. Người Việt Nam thay vì vietnamien, được gọi là annamite. Đây là một từ miệt thị là dân nô lệ, bị trị. Cụm từ “Dân Mít nhược tiểu. Bọn Mít da vàng”, là cụm từ thường dùng. Hà cớ chi An Nam là tên không đáng gọi? Vì An Nam có từ tên An Nam đô hộ phủ, do vua nhà Đường [Trung Quốc] đặt cho nước ta vào thời bị trị Nhà Đường, từ năm 679.

Phạm Duy, qua đời năm 2013, tại Sàigòn, vào thời Việt Nam thống nhất cả hai miền Nam-Bắc, nằm hoàn toàn dưới sự toàn trị của Chính quyền miền Bắc, từ tháng Tư 1975. Sự “Hợp một” này có được phải sau hai mươi năm chiến chinh máu lửa, anh em cùng một nhà thanh toán nhau, một bên bị diệt, mới có một bên được thắng.

Phạm Duy được an táng tại gần Sàigòn. Theo chỗ tôi biết, tâm nguyện của ông, “Quê nhà”, nơi chôn nhau cắt rốn, chính là chốn Kinh Bắc, nơi đó ông sẽ trở lại với nghìn thu, chứ không phải nơi Công viên Nghĩa trang Bình Dương. Điều bí ẩn này chờ một ngày giải mã.

Dài dòng vậy, để tỏ tường cái tình huống, tình cảnh, buổi sơ nguyên tiếng khóc chào đời, cho tới hơi thở cuối cùng một đời Nhạc sĩ, trong xay xát, giữa nghiền nát, ra đi, trở lại, của tình thế chính trị, tư tưởng, binh lửa, qua bao nhiêu tang thương dâu bể của sử lịch.

Phạm Duy là “Một bản tường trình lịch sử” qua âm nhạc. Một điều thấy rõ. Những chương bản nghịch dị trong cuộc đời Phạm Duy là do sự chọn lựa rõ trắng đen chính nơi ông, một người suốt hành trình đời mình, luôn đồng hành với sự sòng phẳng, tự do chính mình. Không giả nhân giả nghĩa. Cũng từ đây, sức sống trong các nhạc phẩm của ông là một khởi phát chân thực từ đáy lòng, qua cái tâm hồn tinh hoa giàu lòng yêu nước yêu người, là một trời nồng nhiệt lôi cuốn người ngưỡng ngoạn luôn theo cùng.

* * *

Cuộc đời Phạm Duy là một cuộc trường kỳ dấn mình, tràng giang “dây nhợ”, trải theo một lịch sử khá đặc biệt của nước nhà. Chinh chiến lâu dài, nhiều đổi thay thể chế chính trị, những xáo trộn xã hội khốc liệt. Ông là một thiên tài âm nhạc. Dấu ấn và tầm ảnh hưởng của ông, đối với quần chúng, xã hội, là rất đặc biệt so với những nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, những nghệ sĩ sáng tác khác, cùng thời.

Những tài liệu viết về ông rất nhiều. Ca ngợi ông rất nhiều. Có người viết cả một quyển sách nhiều trăm trang, chỉ nói về Phạm Duy. Người với những bài dài dặc như một công cụ chính trị đánh phá Phạm Duy cũng không ít.

Ca ngợi, tới tột cùng. Đánh phá, là triệt để.

Nhiều người cùng thành phần Quốc gia với ông, phủi trụi, xóa trắng tất cả thành tựu lớn lao của ông, chỉ để trưng ra một câu chửi bới nặng nề. Lại người yêu mến ông, quý trọng tài năng ông, đã bỏ qua, quên hết “những râu ria mép rìa đời thường nơi ông”, để nhất mực, với lòng thanh thản, con tim nồng nàn, tôn vinh ông. Số người này, có hằng triệu.

Phạm Duy, người thường trực đứng dưới nắng mưa thời thế. Là, một người trọn một đời, như một kịch bản hấp dẫn, khá nhiều bí ẩn và huyền ảo, những chương hồi này nghịch ngược, phản trái với chương hồi kia, trong chính một kịch bản, Phạm Duy.

* * *

Về gia thế, Phạm Duy sinh trưởng trong một gia đình được gọi là một gia tộc lớn. Nơi đó, những tinh hoa cô đọng, bàng bạc tri thức, sự thông thái là suối nguồn, đủ lập dựng một tài năng lớn Phạm Duy về sau.

Thân phụ ông là Phạm Duy Tốn [1883-1924] được xem là một nhà văn xã hội tiên phong của nền văn học đầu thế kỷ 20. Văn chương Phạm Duy Tốn được coi là những dấu ấn đầu tiên mang ảnh hưởng Tây phương trong văn học Việt Nam. Phạm Duy Tốn là một trong những người đồng thời với Học giả Trần Trọng Kim, Thủ tướng Chính phủ; các bậc khoa bảng, các quan lại đầu triều, các nhà văn như Ngô Tất Tố, Nguyễn văn Tố, Phạm Quỳnh, Nguyễn văn Vĩnh… Từ năm 1920 đến 1923, Phạm Duy Tốn là nghị viên Viện Dân biểu Bắc Kỳ.

Những tác phẩm văn học chính của Phạm Duy Tốn: Bực mình (1914), Sống chết mặc bay (1918), Con người Sở Khanh (1919), Nước đời lắm nỗi (1919). Tiếu lâm quảng ký (3 tập).

Người anh cả của Phạm Duy là Phạm Duy Khiêm (1908-1974) là một nhà giáo, nhà văn. Du học Pháp, văn bằng Agrégation de grammaire [Thạc sĩ Ngữ Pháp] năm 1935. 1958 Phạm Duy Khiêm được tặng thưởng Tiến sĩ Danh dự từ Đại học Toulouse, Pháp quốc. 1954 Phạm Duy Khiêm là Bộ trướng Phủ Thủ tướng, Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Pháp [1955-1957] thời Tổng thống Ngô Đình Diệm. Phạm Duy Khiêm nhà văn, viết văn bằng tiếng Pháp. Trong đó có Légendes des terres sereines, Nam et Sylvie, De Hanoi à Lacourtine được một ít giải thưởng văn chương của nước Pháp.

Phạm Duy là người con trai út. Ông còn một người anh, em Phạm Duy Khiêm, là Phạm Duy Nhượng. Phạm Duy Nhượng là một nhạc sĩ, tác giả Tà áo Văn Quân. Ông này chết sớm.

* * *

Phạm Duy, ông không sống mỗi mình, riêng cho âm nhạc. Ông là một Mối tình chung, chan hòa cùng một Việt Nam chiến chinh, chia cắt, bao trầm luân lên vực xuống đèo của Đổi thay.

Phạm Duy nhạc sĩ, còn là một nhà văn –  chính mình viết Hồi ký nhiều tập, rất có giá trị. Là, một nhà nghiên cứu âm nhạc, qua những bài nghị luận sắc sảo về dân ca, nhạc truyền thống, nhạc tây phương. Là, một thi sĩ hàng đầu với ngôn ngữ thơ trong lời nhạc. Hàng trăm bản nhạc của ông có lời, là mỗi bài thơ. Mà là thơ hay, ngôn ngữ đẹp.

Nhà thơ danh tiếng Trần Dạ Từ đã có cái nhìn: “Nhạc sĩ Phạm Duy là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam thời hiện đại”.

* * *

Ra đời từ 1921 Phạm Duy không là kẻ “bất phùng thời”. Mà, “gặp thời”. Nhưng “gặp thời” này rơi vào một kẻ khác, không là Phạm Duy, hẳn chúng ta không có hàng nghìn bản nhạc, trong đó hàng trăm là những danh tác. “Gặp thời” này là một quà tặng thời thế dành riêng cho Phạm Duy. Phạm Duy thật lòng, làm quà tặng, tặng lại cho đời.

Vì sao gọi là gặp/ phùng thời?

Người họ Phạm trưởng thành đúng lúc những chuyển xoay thời thế, những bản lề tác động, mang tầm trọng đại của lịch sử, trên đất Việt.

– Năm 1930, khi Nguyễn Thái Học cùng 12 Nghĩa sĩ, Đảng viên Quốc Dân Đảng chống Pháp lên đoạn đầu đài, Phạm Duy đã 10 tuổi, tính theo lịch trăng.

– Một cao trào văn học Quốc ngữ đã tới hồi phát triển rực rỡ, nhằm vào tuổi biết suy nghĩ và thụ nhận của Phạm Duy. 1933, khởi phóng Phong trào thơ Mới, với những Nhà thơ cự phách tiên phong, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Thâm Tâm, Chế Lan Viên… chấm dứt hệ Đường thi, thơ bát cú [tám câu năm vần] thông thường dùng chữ Hán, hoặc Nôm.

Song hành, 1932, bên đường văn chương, có Tự Lực Văn đoàn, với Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hưng… Những nhà văn đáng kính này còn là những nhà cách mạng, với những luận đề chính trị xã hội, khởi xướng những chương trình cải cách cho cuộc tiến hóa dân trí dân sinh, mong thoát khỏi tối tăm một thời bị trị.

Hương hoa tư tưởng từ Hổ nhớ Rừng [thơ Thế Lữ] đến các tiểu thuyết Đoạn tuyệt [Nhất Linh] Hồn bướm mơ tiên [Khái Hưng], chưa kể hàng loạt những báo chí bừng sáng từ Nam chí Bắc mang tầm cao giá trị. Hẳn, Phạm Duy không thể không chịu tầm ảnh hưởng lớn lao, khi tuổi gần như trưởng thành.

– Dù là học dở dang, nhưng Phạm Duy từng bước vào cửa Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương – École Supérieure des Beaux-Arts de l’Indochine. Trường có từ năm 1925, đã đào tạo những họa sĩ lừng danh, hàng đầu của nền Hội họa nước nhà, như Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Mai Trung Thứ, Lê Phổ, Nguyễn Tư Nghiêm… Phạm Duy bỏ học, như Văn Cao, Thế Lữ, Nhất Linh, đã từng.

– Tuổi thành niên của Phạm Duy, cũng là thời hai Phong trào vận động Cách mạng không bạo lực vũ trang, hãy còn lưu ảnh hưởng rất sâu đậm trong xã hội bấy giờ. Đó là Phong trào Đông Du do Sào Nam Phan Bội Châu chủ xướng, đưa sinh viên sang nước Nhật du học để mở đường. Phong trào Duy Tân của Phan Châu Trinh, nhiệt liệt hô hào chấn hưng dân trí, dân sinh, dân khí, theo đường Tây hóa. Những phong trào yêu nước, mở nước, mở đường vào với văn minh nhân loại, hãy còn tầm vận động sâu rộng trong quần chúng. Phạm Duy đứng trong gió mùa không thể không từng nghe thấy gió.

– Khi Phạm Duy bắt đầu vào đường âm nhạc, nền tân nhạc của nước ta vẫn là “Những ngày đầu, những bước chập chững vào đời”. Non mười năm trước mà thôi, kể từ Phạm Duy sáng tác bản nhạc đầu tiên, 1944, đã có những nhạc sĩ tiên phong mở đường, với Nguyễn văn Tuyên, Văn Chung, Lê Yên, Doãn Mẫn, Lê Thương, Nguyễn văn Thương. Nhiều ca khúc, được xem là những “bản nhạc tây”, đầu tiên của những nhạc sĩ kể trên đã xuất hiện từ những năm 1935, 1936…

– Những biến chuyển lịch sử trọng đại trên thế giới có cuộc Đệ nhị Thế chiến. Ở trong nước là – Pháp đi Nhật đến. Cách mạng Mùa Thu 19 tháng Tám, Tuyên ngôn Độc lập, tháng chín. Chính phủ Trần Trọng Kim thân Nhật sụp đổ. Vua thứ 13, nhà Vua cuối cùng của Nhà Nguyễn, Bảo Đại [Vĩnh Thụy] từ triều đình Huế tuyên bố thoái vị, trao ấn tín kiếm báu cho Mặt trận Việt Minh. Lúc này Phạm Duy 24 tuổi. Tuổi của mỗi thanh niên có quyết định hành động, và chịu trách nhiệm cho chính mình.

– Tháng 10-1945 Pháp đã quay lại Sàigòn. Tháng 12-1946, quân Pháp đổ bộ lên Hải Phòng, tiến chiếm Hà Nội. Chiến tranh Việt Pháp chính thức mở màn. Ba mươi năm tiếp sau, ngưng chiến, hòa bình chia cắt hai miền, nội chiến Bắc-Nam. Tàn cuộc chơi binh lửa, 1975, Phạm Duy đã là 54 tuổi, tuổi của “tri thiên mệnh”.

* * *

Rõ ràng, suốt tuổi trưởng thành của Phạm Duy, lịch sử đã bày biện ra một cuộc thế đầy đủ súng gươm để tranh giành, chém giết nhau, để ai đó nhân thời thế, thừa cơ mà làm anh hùng.

Cũng chính nhân thế ấy, thừa mứa những hỉ nộ ái ố, hân hoan trong mùi vị thương đau, cũng là để ai đó trở thành bậc thiên tài trong các lĩnh vực nghệ thuật, văn chương, thi ca, âm nhạc.

Cuộc thế đã mời gọi. Cửa đời rộng mở. Phạm Duy đã có mặt.

Hiện thực đã hiện thể những tơ mành, tế vi, để quần tụ, vầy ra cuộc/ nguồn đại thể. Vui đến muốn điên, buồn mong được chết. Xã hội, một đài hương. Xã hội con người cũng là một bãi rác thải tanh hôi. Lịch sử, Ta có thể dâng lòng thành, tình yêu, cả máu xương này. Lịch sử là nơi dễ dàng cho những bàn chân bùn lội qua. Những bàn tay máu thao túng. Của Mùi động vật rộng tỏa.

Cửa mở rộng lắm. Con đường là thênh thang. Phạm Duy bước vào. Một bước có thể nhảy từ sơ nguyên lộn về ngay Hôm nay.

Phạm Duy là ai? Là cỗ máy chế biến vĩ đại. Phân loại cái bãi đời. Thu gom hương đời. Xay xát, những phế liệu, những rác thải có thể tái chế, hay cần thiết phải hủy đi. Phạm Duy, là công cụ, làm sạch lạch nguồn. Khơi trong dòng chảy. Là lửa đốt chiều hôm. Cụm lá khô, những cành mọn. Là tách móc mép rìa sự việc đến trọng tâm đại thể. Là đoàn tụ sum vầy ánh đèn đêm, đến tâm sự bầy chim xa xứ.

Phạm Duy, cỗ máy chọn/ chiết lọc từ cái nhân thế hồ đồ, cái lịch sử trập trùng những buồn vui trắc ẩn, để cho ra lời ca tiếng hát.

Lịch sử nước tôi. Phạm Duy, người may mắn, được thần linh ban phúc, được trời đất chiết lọc sự thông thái, tinh hoa từ triệu người, để ban phát cho một riêng Ông.

Nghìn thu sương bóng. Vài thế kỷ may có một đôi người.

Chương II: Ra Đi Từ Lúc Trăng Tơ

Chúng tôi chào đời vào buổi không mấy vui. Cái vui chưa đúng là vui, không đáng nhớ. Cái buồn đi lố cái gọi là buồn, phải kèm thêm từ “thảm”. Trốn đi đâu cũng chẳng thể ra ngoái nỗi nhớ.

Cuộc đời thì dài dặc, niềm vui biến đâu mất tiêu. Cứ nghe cha đêm khuya thở dài. Mẹ ru con toàn nỗi nhớ // Chiều chiều ra đứng ngõ sau / nhớ về quê mẹ ruột đau chín chiều // Nhớ ai không nhớ, nhớ người thất thế sa cơ // Chiều chiều én liệng truông mây / cảm thương chú Lía bị vây trong thành //

Nhớ, là một cõi từ trường của nam châm. Chúng tôi, một thế hệ người mang bệnh “giàu cái nhớ”. Một thứ cố tật hiện nay chưa có thuốc chữa.

Ngồi chốn Sàigòn, nhớ những ngày bề thế mộng mơ trước 1975. Bên cốc cà phê trên đất Mỹ, nhớ đêm vượt biên hụt chết.

Chừng như nói tới cái vui là chuyện bình thường.

Thì thầm nỗi nhớ, những kỷ niệm, lòng ta mới bùi ngùi sâu thẳm. Mới man mác nổi trôi.

Đến như Phạm Duy, trong tình yêu quê huơng, yêu người, vui gì thì cũng đầy nỗi nhớ. Nhớ người ra đi, nhớ anh thương binh, nhớ Hoàng Thị, nhớ mẹ cha bên chiếc đèn dầu hao, nhớ anh nông phu áo chàm quảy lúa trong nương chiều.

Cùng Thế Lữ, Phạm Duy nhớ:

Ϲòn đâu em ơi! Ϲòn đâu ánh trăng vàng
Ϲòn đâu ánh trăng vàng, mơ trên làn tóc rối?
Ϲòn đâu em ơi! Ϲòn đâu bước chân người
Ϲòn đâu bước chân người, mơ trên đường chiều rơi?

Ϲòn đâu đêm sang lá đổ rộn ràng!
Ϲòn đâu sương tan trăng nội mơ màng?
Ϲòn đâu em ngoan, tóc rối ngổn ngang
Tuổi em đôi mươi, xuân mới vừa sang…

Ϲòn đâu em ơi! Ϲòn đâu giờ nhung lụa?
Mộng trùm trên bông, tình nồng trong gối…
Ϲòn đâu em ơi! Ϲòn đâu mùi cỏ dại?
Ϲhút tình thơ ngâу, Không còn trên đôi má.

Là nhà văn, khi cầm bút, quá khứ luôn đứng đầu chỗ ngọn bút. Mỗi giọt mực là một giọt/dòng dĩ vãng. Tất cả cái “bản đồ số phận” trong Cõi nhớ ấy, trong một thời/ không gian có hạn định, đã từ lâu trôi qua. Có khi trôi tút mù trong bộ nhớ của nhơn loại. Nó như xác một con dán chết khô trong kẹt tủ, dưới gầm bàn bỏ quên. Mà chúng tôi vẫn nhớ. Nhớ tận mạng, li ti, day dứt. Không có thước tấc nào đo đạc đủ bề sâu chiều rộng cái Nhớ ấy.

Nhìn chung, chúng tôi, chừng là một tộc người đang đánh mất hiện tại, mù đôi mắt nhìn ra tương lai. Chỉ dặm dài, hun hút một đôi-mắt-luôn-sau-ót, phản chiếu những phó bản của Ngày qua.

* * *

Nói/ Viết về Phạm Duy, cũng là cách mò mẫm quá khứ, kể lể về mình. Tôi đã lỡ biết đánh đàn, đi theo tiếng đàn từ thưở bé, lớn lên đi theo các ban nhạc hát hò. Vào cõi âm nhạc Việt Nam là không thể không biết đến Phạm Duy.

Các đấng tài hoa trong âm nhạc như Văn Cao, Lê Thương, Đặng Thế Phong, Nguyễn Văn Thương, Dương Thiệu Tước… đến với tôi như các ga tàu. Lên ga một đoạn đường, rồi xuống ga, giã từ.

Phạm Duy, là con đường tàu dài, xa/ suốt. Lên tàu, xuống tàu, từ Ải Nam Quan, tận Miền Nam trả ơn cái cối cái chày, vẫn một con đường, vẫn những “ga Phạm Duy”. Ở đó luôn là những âm vang dội lại từ nụ cười tiếng khóc, nhịp điệu nhân gian qua tháng ngày.

Phạm Duy, ông đến từ Hôm ấy, vắng mặt Hôm nay. Ông cỡi-Hạc-ra-đi đã nhiều năm, nhưng ông vẫn còn lơ lửng trong mắt người. Như một con diều giấy rực rỡ bay trong một chiều vàng no gió, khi diều đã đứt dây, rơi rụng, bọn trẻ nhắm mắt, con diều thân yêu vẫn còn bay trong bóng tối mắt mình.

Có thực mỗi ngày một sự Mới? Ngôi sao đã lặn đêm qua, đêm nay đã trở lại trên bầu trời. Giọt sương đã tan sớm qua, hôm nay mặt trời lên, giọt sương vẫn long lanh trên lá. Cuộc biến đổi, lắm khi, chỉ là những hóa thân. Phạm Duy luôn, và thường trực hóa thân, ít ra trong ngôn ngữ riêng ông. Vẫn những dòng ngôn ngữ cũ ấy, những hình thái đã ẩm mốc tháng ngày, qua Phạm Duy, bỗng mới ra, bỗng dìu dặt tang bồng, tách lìa cái vừa qua, trong tiến trình sáng tạo nơi ông. Phạm Duy, người sáng tạo ngôn ngữ.

Phạm Duy, là Có, cũng là Ảo. Như có thực, như ta đặt điều mà nói. Ta khó diễn tả tận lòng một thế giới bao trùm.

Nói chuyện này chưa xong là kỷ niệm kia hiện về. Sao là thế? Vì, chính Phạm Duy, luôn dẫn dắt người đi với Tiếng Lòng của ông. Sông rộng đường dài, từ ngõ ngách tâm tình mở khép, khi trực ngộ, khi lung lạc huyền áo. Phạm Duy rất thực, nhưng thoát ngoài những sự thế bình thường.

Phải chăng, Phạm Duy rất tục lại rất thanh. Phạm Duy tinh khiết mà lầy lội những tình nhân thế. Nghịch dị, luôn ở trong một con người, Phạm Duy.

* * *

Tôi có cái duyên may, từ sáu tuổi đã học đàn. Lên tám, đã thành thạo đàn mandolin. Lúc này tôi theo học tại trường tiểu học Kế Xuyên – École de Primaire de Kế Xuyên. Thời thanh bình. Cành tre bụi trúc vườn cỏ dại, nơi nào cũng một vẻ đẹp, an nhiên. Chừng trong gió mùa có bước chân một ai về. Gần với tiếng đàn, chừng là gần gũi với điều thanh cao, những thanh tẩy tâm hồn.

Thuở tôi học trò, thuở Phạm Duy đã có bài Cô Hái mơ 1944, nước ta là thuộc địa của người Pháp. Lấy nước Pháp làm nước Mẹ, Mẫu quốc. Lúc chào cờ hát quốc ca Pháp là bài Marseillaise. Chào quốc kỳ Pháp ba màu xanh trắng đỏ, gọi là cờ tam tài. Con trai Việt, ngay lúc bé nhỏ, đã phải biết mình có tổ tiên Gaulois. Nos ancêtres sont des Gaulois // Tổ tiên chúng ta là người Gaulois.

Phạm Duy thời buổi này đã ngoài hai mươi tuổi. Ảnh hưởng được một nền văn hóa Pháp, đã giỏi tiếng Pháp. Tầm ảnh hưởng của một nền văn hóa Hán Nôm hãy còn sâu rộng, hẳn ông đã đọc được nhiều kinh điển, văn hóa của Đông Phương.

Tiếng đàn của tôi bấy giờ đã thành thạo, tròn vang, nhưng trí não non tơ, tâm hồn cỏ dại, chưa hiểu gì nhiều lời thơ, ý nhạc. Nhưng buổi đầu đời trong sáng ấy, lấp lánh hoang mơ, như là Lời mở đầu Con Đường Cái Quan của ông, “Ra đi từ lúc trăng tơ…”

Tôi đi từ ải Nam Quan sau vài ngàn năm lẻ
Chia đôi một họ trăm con đã lên đường
Năm mươi người ngược núi rừng
Đã dựng vòng biên ải
Năm mươi người trẩy theo sông tới khơi chừng

Tôi theo người vượt quan san
Ơi người ơi Ơi người ơi
Vẽ lối mòn gìn giữ quê hương ngăn đường giặc Hán
Tôi chưa về Ải Chi Lăng
Ơi người ơi Ơi người ơi
Dưới chiến bào người thấy băn khoăn thương ai đầu nguồn…

[Con Đường Cái Quan – lời Lữ khách]

* * *

Từ “buổi trăng tơ” ấy, bầu trời âm nhạc Việt có một vì sao sáng tỏa. Một Phạm Duy man mác trữ tình, nồng nhiệt. Một tổng hợp tình tiết nhân gian, hoạt cảnh xã hội, mảnh tâm tình buồn vui nơi mỗi lòng người. Hô hào kháng chiến, hăng hái lên đường, nhưng lời ca tiếng hát ấy không hề là khẩu hiệu, kích động sự chém giết. Hùng tráng mà không thô cứng. Sức mạnh ấy từ một tâm hồn đa cảm, tấm lòng rộng mở, cưu mang.

Do vậy bao nhiêu bản hùng ca thịnh hành một thời, rất hữu dụng cho công cuộc cách mạng, chống ngoại xâm, chỉ một thời gian ngắn sau, người đời quên bẵng. Tiêu biểu, Lưu Hữu Phước chẳng hạn.

Phạm Duy ca ngợi anh chiến binh, bà mẹ chiến sĩ, chiến thắng sông Lô, đánh được đồn Tây, nhưng là những bản “tình ca”, thời nào cũng hát được.

Nhạc người họ Phạm buồn, đầy nỗi nhớ, niềm yêu đánh mất, nhưng không bi lụy, cải lương dài dòng, khóc lóc kiểu ngôn tình. Vậy đấy. Kháng chiến có Phạm Duy. Thanh bình đôi chút có Phạm Duy đôi nơi.

* * *

Người ấy đi từ Hôm ấy tới Hôm qua. Cùng nhịp bước của vô thường, Người đã bỏ đi.

Một đêm của năm 2016, trên đất Mỹ, tôi được Nhà báo Hòa Bình Lê, mời dự đêm tưởng niệm Phạm Duy tại hội trường Việt Báo, Westminster, Nam California. Tưởng niệm là đương nhiên, ông đã về với thần tiên từ ba năm qua, từ 2013, nhưng tôi vẫn tìm ông quanh quất, trong cái vô thức chợt hiện.

Không thấy Phạm Duy đâu. Ông, chỉ là tấm chân dung to lớn, vẫn mái tóc bạc, nụ cười ngạo nghễ. Gặp lại hình ảnh ông trong một Hội trường lớn của Việt Báo, đầm tiếng ca, nỗi nhớ, qua Tình Hoài Hương, Tình Ca, Ngày Trở Về, Giọt Mưa trên Lá… Phạm Duy, ông là chiếc Bóng phủ dụ trên nhiều phận người.

* * *

Cõi đời, có phận rủi may mang người trôi những dặm trường run rủi. Thời tuổi thơ, đến lúc tôi là một “văn công nhí” ca hát chín năm Vùng Kháng chiến Việt Minh Liên khu Năm. Ca hát nhạc Phạm Duy chỉ được ba bốn năm đầu khởi chiến, [1946-1949] tôi gọi đó là “Thời lãng mạn kháng chiến”, rồi Phạm Duy vắng bóng.

1975, ông ra đi.

Tưởng ông là một kẻ biệt cố hương. Nhưng. Cái “nhưng” không mong đợi, tôi lại gặp ông từ đất Mỹ trở lại, năm 2000.

Buổi gặp đầu tiên tại khách sạn Continental, Sàigòn. Lần lượt, khá đông người đến thăm ông. Bạn bè, người quen cũ, những người trẻ yêu mến ông, và… rất đông những người là làm văn nghệ thuộc chính quyền đương thời.

Phạm Duy về nước đôi lần, dò xem cái quê hương cũ có là Đất Mẹ, như ông từng thương nhớ, hay nay đã là vùng Đất hiểm, khó dung tha người quay lại. Thật kinh ngạc. Sau vài lần dò dẫm, ông ở luôn quê nhà.

Dù sao, thế nào, vậy chăng! Người đời gởi tới ông làn trầm thơm, nụ hoa hồng, lẫn những trách hờn cay đắng.

Với tôi, Phạm Duy là Người gieo hương. Những hương tơ trúc nồng nàn. Những hương của Âm, Lời rộng tỏa. Ấm, lạnh, nó vẫn đi suốt những linh hồn. Tôi đến với ông từ tuổi còn bé thơ, tới hôm nay, khi viết những dòng này, tuổi đời đã vào thềm 90, đời đã riêng bề, một góc nhỏ.

Đến với Phạm Duy là đến với, là trở về, là tìm lại, những mảnh hồn quê, những tình nhân gian, những tiếng khóc cười dâu bể, những kể lể êm đềm câu chuyện tưởng là nhỏ/vặt/đáng quên. Đi với ông là đi với những phận đời theo cùng nước non, sử lịch. Mỗi con người, chiếc thuyền đơn trắc ẩn trong biến động dập vùi.

Cảm ơn núi non đã cho những tầm cao. Cảm ơn những cổ thụ đã cho bóng mát, đã gieo trong tôi cái ý niệm trường tồn.

Chương III: Phạm Duy lên đường

Pham Duy_Tranh Thái TuấnPhạm Duy. (Tranh: Thái Tuấn)

Phạm Duy từng là một anh bộ đội. Phạm Duy từng là một văn nghệ sĩ, một cán bộ văn hóa, phục vụ khắp các chiến trường những năm đầu cuộc Kháng chiến chống Pháp, từ 1945 đến 1951.

Chỉ sau hai năm đầu toàn dân cùng một lòng chung nhau chống Pháp đã bắt đầu có sự phân rã, vì lý do ý thức hệ tư tưởng chính trị. Những thành phần Quốc gia hiểu ra họ cần một môi trường chống Pháp không cùng hàng ngũ với Mặt trận Việt Minh. Từ 1947, đã có phong trào dinh tê [rentrer, trở về]. Người Quốc gia cùng nhau rời bỏ hàng ngũ kháng chiến để trở về thành phố, những vùng có quân Pháp chiếm đóng. Năm 1948 đã hình thành Lực lượng Quốc gia Việt Nam, có chính phủ và quân đội riêng, nằm trong khối Liên Hiệp Pháp. Vua Bảo Đại đứng đầu.

Điều đặc biệt Phạm Duy vẫn phục vụ trong hàng ngũ kháng chiến đến năm 1951 mới thực sự rời bỏ. Bước chân Phạm Duy từng ở Mặt trận Miền Nam, vùng Bà Rịa-Vũng Tàu, ra tới miền Trung du Bắc bộ, tận núi rừng Việt Bắc.

* * *

Vì sao Phạm Duy đi kháng chiến? Vì bấy giờ toàn bộ dân chúng một lòng đứng lên, một lòng hoan hỉ, Phạm Duy đi theo Tiếng Gọi chung từ lòng dân yêu nước. Năm 1946, Thực dân Pháp quay trở lại, kháng chiến bùng nổ, điều của lương tâm sai bảo, là “Cùng nhau chống Pháp”. Phạm Duy đã có mặt.

Thời khởi chiến, cùng là hoàn cảnh như Phạm Duy, những người là tướng tá, nhân vật cao cấp trong guồng máy Quốc gia sau này, thời Bảo Đại [1948-1955], và Đệ nhất Cộng Hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm [1955-1963], trước kia đều là những người đã từng theo Mặt trận Việt Minh.

* * *

Tham khảo tiểu sử Phạm Duy, chúng ta biết: Năm 1945, sau khi từ giã gánh hát Đức Huy, Phạm Duy gia nhập Thanh niên Tiền phong, làm công tác văn nghệ rồi vào đội Võ trang Tuyên truyền. Cuối năm này, ông về Hà Nội. Đầu năm 1946 Phạm Duy tham gia một lớp huấn luyện quân sự cấp tốc rồi được đưa vào miền Nam tham gia kháng chiến. Tại chiến khu Bà Rịa-Vũng Tàu làm công tác thông tin, liên lạc và tiếp vận. Đầu mùa Thu năm 1946 ông bị thương ở cánh tay và được phép về Bắc. Phạm Duy ở Huế một thời gian rồi về Hà Nội khoảng cuối tháng 10/1946. Thời gian này, bài Về Miền Trung ra đời.

Ngày 20 tháng 12 ông ra Hà Đông, làm việc tại Đài Phát thanh bí mật; sau đó tham gia Đoàn Văn nghệ Giải phóng tại Sơn Tây rồi đi phục vụ văn nghệ qua Phúc YênVĩnh YênViệt TrìPhú ThọTuyên QuangYên BáiLào Cai. Ở Lào Cai, cùng với Văn Cao, Ngọc Bích, làm việc tại phòng trà Quán Biên Thùy [một cơ sở tình báo]. Sau đó ông cùng Ngọc Bích đến Bắc Cạn [qua Yên Bái, Tuyên Quang, Thái Nguyên] khoảng tháng 10/1947. Ông làm việc cho Cục Chính trị, là cán bộ văn nghệ với cấp bậc đại úy. Cuối 1947 Phạm Duy từ Thái Nguyên qua Bắc Giang, tham gia đoàn văn nghệ do Hoàng Cầm thành lập, lưu diễn tại Bắc Giang, Cao BằngLạng Sơn. Năm 1948, không còn là văn nghệ sĩ của Cục Chính trị, ông đi phục vụ văn nghệ tại nhiều nơi, Bắc Giang, Bắc Ninh, Phúc Yên, Sơn Tây, Hà Đông. Phạm Duy vào Thanh Hóa, tham gia Đoàn Văn nghệ Quân đội Liên khu IV, trực thuộc Trung đoàn 304. Tại Thanh Hóa năm 1949, Phạm Duy cưới Thái Hằng, người chủ trì hôn lễ là tướng Nguyễn Sơn. Phạm Duy lại ra Việt Bắc. Năm 1950, tham dự Đại hội Văn hóa Toàn quốc. 1951 ông từ bỏ kháng chiến, vào sống hẳn tại Sàigòn. Đánh dấu bước ngoặt này, là bài “Bên cầu Biên giới” một bài ca nổi tiếng.

Ngừng đây soi bóng bên giòng nước lũ
Cầu cao nghiêng dốc bên giòng sông sâu
Sầu vương theo sóng xuôi về cuối trời
Một vùng đau thương chốn làng cũ quê xưa

Người đi chưa hết hương sầu lữ thứ
Hồn theo cánh gió quên tình xa xưa
Tuổi xanh như lá thu rụng cuối mùa
Mộng về đêm đêm khát vừng trán ngây thơ

“Em đến bên tôi một chiều khi nắng phai rồi
Nắng (ư) ngừng bên chiếc cầu biên giới
Xa xa thoáng đàn trầm vô tư
Đâu đây dáng huyền đêm duyên mơ

Bên cầu biên giới
Tôi lặng nghe dòng đời từ từ trôi
Sông nước xa xôi
Mây núi khắp nơi
Không tỏ một đôi lời…

Ôi giấc mơ qua
Mộng đời phiêu lãng giang hồ
Sống trong lòng người đẹp Tô Châu
Hay là chết bên dòng sông Danube

Những đêm sáng sao
Nhưng đường quá xa vời
Hương trời vẫn mê mài
Lòng tôi sao vẫn còn biên giới!
Lòng tôi sao vẫn ngừng nơi đây

Ôi dòng tóc êm đềm!
Ôi bể mắt đắm chìm!
Đời phong sương cũ, chỉ là thương nhớ
Mộng bền năm xưa
Chỉ là mơ qua!!!

Từ trái (hàng sau): Phạm Duy, Hoài Bắc Phạm Đình Chương, Hoài Trung,
(hàng trước): Thái Hằng, Khánh Ngọc, Thái Thanh

* * *

Từ 1945  đến 1951, Phạm Duy đã có một lượng tác phẩm đồ sộ. Cuộc Kháng chiến lửa nguồn, là tràng giang trôi chảy cảm hứng sáng tác nơi ông.

Không chỉ số lượng, Phạm Duy đã chinh phục lòng người qua dòng nhạc êm ả, giàu tâm sự, giàu hình ảnh sống thực, và trên hết là tình yêu quê hương, tình đồng bào. Ông mang lại sự bình thản, niềm vui sống ngay dưới ánh trời lửa đạn, từng ngày là chết chóc, đau thương, ngậm ngùi.

Thể tài đơn giản, bình thường trong những điều gần gũi. Những lối ngõ thường hằng, vụn nhỏ nhất trong sinh hoạt đời chung. Dưới ánh đèn dầu, mẹ ngồi khâu áo, cha đọc báo, phơi lúa dưới nắng vàng, người nông phu gánh lúa, mối tình nghèo, anh thương binh, bà mẹ chiến sĩ, cảnh chiều quê, anh lính tải thương, em bé chăn trâu, con đê, cánh diều…

Không có mặt những từ ngữ “bề thế, thời thượng”, những hữu thể, hư vô, hố thẳm, tha nhân, buồn nôn phi lý, những nan vấn triết học. Nhưng lời ca rất hàn lâm, gọn, đẹp. Ý tình tha thiết, êm đềm, trải rộng tình nhân gian. Đó là Phạm Duy.

Liệt kê một phần những sáng tác của Phạm Duy những năm đầu kháng chiến.

Nhớ người thương binh, Dặn dò, Nương chiều, Ru con, Mùa đông chiến sĩ, Người lính bên tê, Thu chiến trường, Chiến sĩ vô danh, Nợ xương máu, Bà mẹ Gio Linh, Nhớ người thương binh, Đường ra biên ải, Đoàn quân văn hóa, Nhớ người ra đi, Lập Chiến công, Rèn cán chỉnh quân, Thanh niên quyết tiến, Bông Lau rừng xanh pha máu, Thiếu sinh quân, Quân y ca, Xuất quân, Dân quân du kích, Thu chiến trường, Ngày trở về, Tiếng hát sông Lô, Việt Bắc, Nhạc tuổi xanh, Đường Lạng Sơn, Đường chiều, Cây đàn bỏ quên, Khối tình Trương Chi, Tình kỹ nữ, Tiếng bước trên đường khuya, Gánh lúa, Quê nghèo, Tình nghèo, Về miền Trung, Bên cầu Biên giới….

Dưới đây là một trong vô số bài của Phạm Duy được hát nhiều nhất trong vùng Kháng chiến. Có thể nó nói được nhiều tâm trạng của người dân một thời lửa đạn. Lời bài ca chính là một bài thơ.

Quê nghèo

[Bao giờ anh lấy được đồn tây]

1
Làng tôi không xa kinh kỳ sáng chói
Có những cánh đồng cát dài
Có lũy tre còm tả tơi
Ruộng khô có những ông già rách vai
Cuốc đất bên đàn trẻ gầy
Có người bừa thay trâu cầy

Bình minh khi sương rơi mờ trên rẫy
Thấp thoáng bóng người bên ngòi
Tát nước với giọt mồ hôi
Chiều rơi thoi thóp trên vài luống khoai
Hiu hắt tiếng bà mẹ cười
Vui vì nồi cơm ngô đầy…

Bao giờ cho lúa được mùa luôn, lúa ơi
Để cho cô con gái không buồn vì gió Đông
Bao giờ cho lúa về đầy sân, hỡi em
Để cho anh trai tráng được gần người gái quê.

2
Làng tôi luôn luôn vươn vài đám khói
Những mái tranh buồn nhớ người
Xơ xác điêu tàn vì ai
Nửa đêm thanh vắng không một bóng trai
Có tiếng o nghèo thở dài
Vỗ về trẻ thơ bùi ngùi

Từ khi đau thương lan tràn sông núi
Quê cũ đã nghèo lắm rồi
Thêm đói thêm sầu mà thôi
Nằm mơ, mơ thấy trăm họ tốt tươi
Mơ thấy bên lề cuộc đời
Áo dài đùa trong nắng cười…

Bao giờ em trở lại vườn dâu, hỡi em
Để cho anh bắc gỗ, xây nhịp cầu (anh) bước sang
Bao giờ cho nối lại tình thương, hỡi ai
Để em ra bến vắng, đón người người chiến binh.

* * *

Trần Văn Khê, một tài năng âm nhạc, chỗ thân thích với Phạm Duy, ông viết:

“Trong hầu hết những bài hát của Phạm Duy, lời và nhạc chẳng những hay, mà lại có tánh cách giản dị, mộc mạc và nên thơ của những bài ca dao, những câu lục bát biến thể, hay những câu lục bát có thêm tiếng đệm được phổ nhạc một cách tài tình.”

Đối với tôi, Phạm Duy là một người nhạc sĩ toàn diện về mọi mặt (toàn diện theo nghĩa đầy đủ nhất của hai từ “nhạc sĩ”). Duy có những khả năng rất đặc biệt trong âm nhạc mà không phải bất kỳ người nhạc sĩ nào cũng có thể hội tụ đầy đủ, và sự cảm thụ âm nhạc nghệ thuật của Duy cũng mang tánh cách rất riêng, rất “Phạm Duy”, nhưng cái riêng đó không hề lạc ra khỏi cái gốc rễ tình cảm chung của người Việt Nam.

Duy đã làm những cuộc phiêu lưu “chiêu hồn nhạc” hết sức đậm đà, huyền diệu, đầy thơ mộng mà cũng đa dạng và phong phú vô cùng! Duy “chiêu” được “hồn” ông thần Nhạc và thành công trong nhiều thể loại, có lẽ bản thân ông thần Âm nhạc cũng “mê” lối “chiêu hồn” của Duy rồi chăng?

Thành công – đối với Duy mà nói – không phải chỉ sớm nở tối tàn, mà phải nói rằng những nhạc phẩm đó đã và vẫn mang nhiều giá trị về ngôn ngữ âm nhạc lẫn ca từ, không lẫn với bất cứ ai, đặc biệt là những nhạc phẩm ấy sống mãi trong lòng người Việt say mê âm nhạc, nghệ thuật.

Có những thể loại nhạc đối với người nhạc sĩ này là sở trường, nhưng với người khác nó lại không phải là thế mạnh. Còn Duy có thể làm cho những thể loại âm nhạc khác nhau “chịu” đi theo mình, nghe lời mình uốn nắn và đưa vào tâm hồn tình cảm của Duy. Duy viết tình ca đi vào lòng người bao thế hệ, viết hành khúc sôi nổi một thời cũng làm cho thính giả khó quên, hay viết trường ca, tổ khúc… cũng làm lay động con tim âm nhạc của bao người. Những thể loại Duy làm ra đều được sự tán thưởng của giới mộ điệu âm nhạc, lấy được nhiều tình cảm từ công chúng. Điều đó không hề dễ có đối với một tác giả. Nó tồn tại cho tới bây giờ cũng đủ để thấy giá trị âm nhạc Phạm Duy mang một dấu ấn khó phai trong dòng chảy âm nhạc Việt, và hạnh phúc hiếm có nhất: vẫn vững chãi trước ba đào thời gian”.
[Hết trích].

* * *

Có một điều đăc biệt, một thời cả trong vùng Việt Minh và vùng Pháp chiếm đều hát nhạc của Phạm Duy. Năm 1951 là chấm dứt thời Lãng mạn Kháng chiến, thời tương đối còn chút tự do trong việc sáng tác và truyền bá tác phẩm văn chương nghệ thuật. Đây cũng là lúc Nhạc Phạm Duy bị cấm phổ biến, vì ông cùng gia đình rời hàng ngũ kháng chiến để Về thành.

Trong bài viết về Nhà thơ Hữu Loan tôi có một đoạn viết về thời đầu chống Pháp mà tôi gọi là thời Lãng mạn kháng chiến:

“Thời ấy, những năm đầu khởi chiến chống Pháp, [1946-1949] mọi thứ còn hoang mộng. Cả thảy một tình yêu nước nồng nàn, toàn dân một tình cảm ngây thơ trước những mưu đồ chính trị. Sinh hoạt xã hội, ý thức hệ đối kháng, chưa từng cay nghiệt như những tháng ngày nội chiến về sau. Thuở ấy, ảnh hưởng một nền văn hóa cũ hãy còn. Văn thơ, là Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo của Tự Lực văn đoàn, là Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính… âm nhạc với Thiên Thai, Suối mơ, Giọt mưa thu, Trăng mờ bên suối, Trương Chi…

Cách sống văn hoa lãng mạn của một lối sống trí thức tiểu tư sản hãy còn in đậm. Những cụm từ ngày nay đã trở nên sáo mòn cũ rích, nhưng buổi ấy là những “thanh âm” gợi cảm, gây mê cho bao thanh niên nam nữ trên đường trường chinh, những “Chiều biên khu, trấn thủ lưu đồn, sương biên thùy, chinh phu, chiến bào, sơn khê…”

Thấp thoáng dưới ánh trăng thôn dã là những bản nhạc chép tay chuyền cho nhau, những Dư âm, Nụ cười sơn cước. Tiếng hát Sông Lô, Cung đàn xưa, Làng tôi, Những thơ, Tây tiến, Đôi bờ…

Những lời thơ tiếng hát “lãng mạn” đã sáng tác trong thời gian này, và được phổ biến rộng rãi. Là, Màu tím hoa sim [Hữu Loan], Dư âm [Nguyễn văn Tý], Nụ cười sơn cước [Tô Hải] Nắng chiều [Lê Trọng Nguyễn]…

1952 Phạm Duy rời hàng ngũ, nhạc ông bị cấm, nhân thân bị kết tội phản quốc.

Nhân gian lâu dài về sau, hãy còn một Phạm Duy khác. Một Phạm Duy được Tự do và Hạnh phúc trùng tu.

Chương Kết

Pham Duy Bản Vẽ của Tạ TỵPhạm Duy (Bản Vẽ của Tạ Tỵ)

Tôi viết về Nhạc sĩ Phạm Duy, một bài khá dài, nhiều chương, với một tình cảm thân thiết, rõ ràng, đơn giản, như ta nói thân hình ông ta chia làm ba phần đầu mình và tay chân, trong đầu có bộ não, vầy thôi, nhưng/ hẳn sẽ làm rất nhiều người không đồng tình. Thậm chí cay đắng, “Thằng này đã ca ngợi thằng kia”.

Đây là những người vốn không thích, chẳng ưa, rất ghét Phạm Duy. Tôi không có quyền bình phẩm đúng sai.

Tôi vẫn tôn trọng những người này. Vì tôi hiểu, Tự do phải cần được tôn trọng.

Phạm Duy thừa biết nhiều người không yêu thích mình. Trong những lá thư gởi tôi, sau lời thăm, chúc cuối thư, ông luôn viết thêm, “thăm cả người yêu lẫn kẻ ghét”.

Nhà thơ Phùng Quán đã nói rõ:

Yêu ai cứ bảo rằng yêu
Dù ai non ngọt nuông chìu
cũng không bảo yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
cũng không bảo ghét thành yêu

[Lời Mẹ dặn]

* * *

Những ai đã từng sống trong một xứ sở luôn thiếu dưỡng khí, con người với súc vật lắm khi cùng một mùi hơi, suốt chiều dài non thế kỷ là chiến tranh, chia cắt, nội thù. Không chỉ dùng súng đạn, lưỡi lê mã tấu cho một tình cảm chung của dân tộc là chống ngoại xâm. Mà là, để anh em một nhà thanh toán nhau, bạn bè thù hận nhau, một mối thù truyền kiếp không nguôi.

Đối nghịch ý thức hệ chính trị Quốc-Cộng, ly biệt vì tình cảnh trong nước ngoài nước, cái hố thẳm ấy, tận hôm nay, cả một giống nòi chưa thể vượt qua. Nó đã thành máu chảy trong người. Không còn cái máu thù hận nhau ấy, qua trái tim, hầu như ta không còn giá trị gì, để sống trên cõi đời.

Mỗi chiều hôm quạnh quẽ, một sớm mai thức giấc, những ai là người nổi danh, có chút tiếng tăm nên hiểu, Có lắm người đang mài dao trên thớt chờ đợi mình. Nhạc sĩ Phạm Duy, cả Thiền sư  Nhất Hạnh, không nằm ngoài.

Có điều lạ lùng. Bây giờ, “Cái bọn người tài ba ấy” chỉ còn là những bộ hài cốt nằm sâu trong lòng đất. Ác nhơn “Bọn ấy” chưa chết. Có thể là không bao giờ khuất mặt. Những nhạc, những áng thơ văn, nói chung những sản phẩm tinh thần, thứ ánh sáng tâm linh “bọn ấy” giọi vào đời, hãy còn mãi đây. Họ sống với những gì đã lưu dấu, không cần thiết là những tượng đài xi măng cốt sắt.

Họ lồng lộng còn đây với tiếng hát đêm đêm dưới ánh đèn màu, của Hôm nay, tận Mai sau, hay trong sâu lắng những chốn riêng mỗi lòng người. Với một bát ngát minh triết, cõi lòng rộng mở, biển trời chờ mong trong hẹn gặp:

Tìm trong câu thơ cổ
Tìm qua tranh tố nữ
Tìm trên môi đương ca câu thương nhớ
Tìm sâu trong muôn thuở
Tìm sau lưng bốn mùa
Tìm nhau như Thiên Cổ tìm Ngàn Thu

Tìm nhau trong bom lửa
Tìm nhau trong mưa bão
Tìm nhau trên kinh đô xâу trong xương máu
Tìm nhau trong thống khổ
Tìm nghe câu than thở

Tìm nhau khi nhân loại được trùng tu.
Gặp nhau trong vinh dự của đời người, Người ơi
Gặp nhau dưới Đức Tin bao la phơi phới
Gặp nhau trong cơ khổ của thế giới, ơi Người
Gặp nhau, đôi tâm hồn được nghỉ ngơi.

[Tìm nhau – Phạm Duy]

* * *

Tôi đi trong bao la ấy.

Tôi thanh thản với tự do riêng mình.

Tôi vẫn thở, và viết.

Cái sự trục trặc, trắc ẩn trong lòng người gian thế đâu chỉ có hôm nay.

Không chỉ hôm nay. Từ sâu trong thiên cổ hãy còn vang dội. Nguyễn Trãi với Bình Ngô Đại cáo. Ông từng bị tru di tam tộc – giết cả ba họ, họ cha họ mẹ, họ vợ – vì vụ án Lệ Chi viên. Với Thiền thi, Trần Nhân Tông, vị Vua này há không có nỗi niềm trước khi thành vị Phật Hoàng. Với truyện Kiều, Nguyễn Du, ông vui gì trong tiếng đàn của Thúy Kiều.

Sau cùng, cái mà thế gian nhớ, nhân gian cần, là trên những tác phẩm họ để lại. Cái đời xác thân kia, cái hữu thể được giả định là một mệnh người, đã từ lâu hóa tro.

* * *

Tương truyền, Cao Bá Quát, nhà thơ vào hàng thi bá, lại giỏi chữ, vào thời Nhà Nguyễn, ông rất ngạo mạn, cho rằng “Trong thiên hạ có ba bồ chữ, họ Cao này đã một bồ”.

Về Phạm Duy, ta ví von theo lời họ Cao, “Trên đất Việt có ba bồ nhạc, người họ Phạm đã một bồ”. Đúng bon.

Cứ phân loại ra từng mục các thể loại nhạc rồi liệt kê ra số tác phẩm, ta hẳn thấy rất nhiều loại Phạm Duy đứng đầu. Mà hạng nhứt này trên hạng nhì kia xa lắm. Hạng nhứt vài trăm bài, người về hạng nhì chưa tới vài chục bài!

Nhạc tình chẳng hạn. Không chỉ là tình yêu nam nữ, người họ Phạm có chục thứ tình, tình ca quê hương, tình yêu đất nước, tình hoa cỏ, tình mẹ, tình kháng chiến. Liệt kê một cách khiêm tốn đã trên nghìn bài!

Nhạc ngoại quốc được chuyển lời sang tiếng Việt họ Phạm có trên vài trăm bài. Con số tương đối đầy đủ là 255 bài! Đủ thể loại, dân ca, tình ca, POP, nhạc Khiêu Vũ… Ông đặt lời cho nhạc không lời – những danh tác bất hủ bán-cổ-điển Tây Phương. Nhạc chuyển lời của Phạm Duy, phần lớn là những bài được đông đảo người thưởng ngoạn lắng nghe, ca ngợi.

Phạm Duy phổ thơ thuộc loại ảo diệu, phù thủy ngôn ngữ. Gom số lượng bài ca được phổ nhạc từ thơ do các nhạc sĩ cả nước cộng lại, ta sẽ thấy kinh ngạc số lượng Phạm Duy có. Tài hoa như Phạm Đình Chương, so với Phạm Duy, cũng phải khiêm nhường.

Không nói quá, ông là “Người hóa kiếp thơ”. Có đôi nhà thơ đã trách giận ông vì bị bỏ đôi chữ, thay đổi cấu trúc bài thơ. Nhưng nhìn chung hầu hết các thi sĩ được ông nhặt thơ ra, đưa vào nhạc, là nâng bài thơ ấy lên một cung bậc khác, đưa nó ra “trận tiền’ để đông đảo người “biết đến”, khi, vốn bài thơ đã khiêm tốn nằm trong chốn im của chữ nghĩa.

Nhiều nhà thơ chưa tên tuổi bao nhiêu, rất nhiều, khi bài thơ được Phạm Duy phổ nhạc, thơ được nâng cung bậc, nhà thơ ấy lên ngôi.

Nhiều bài thơ của các nhà thơ hữu danh, như Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Bích Khê, Hàn Mạc Tử, Hoàng Cầm… thơ ấy hay, nhưng người đọc có giới hạn, và qua thời gian chừng nó đã an phận là “quá khứ”, thư mục lưu trữ trong các thư viện. Nhưng / bỗng khi được Phạm phả dòng nhạc vào, linh hồn kia thức giấc. Vang động trong tâm người thưởng ngoạn. Những Ngậm ngùi, Hoa rụng ven sông, Mộ khúc, Tiếng sáo Thiên Thai, Tình Cầm…

Kể cả tính hàn lâm, chỗ lai láng ý tình, sâu lắng cái ngẫm nghĩ nhân gian, cô đọng và hoa mỹ của ngôn từ, e rằng Người họ Phạm có hơn… một bồ.

* * *

Trong sinh hoạt âm nhạc Việt Nam, Phạm Duy là ngôi sao Trường Canh.

Trời bắt đầu vào đêm, sao xuất hiện ở chân trời phương đông. Nửa đêm sao đứng giữa trời. Tàn đêm, sao mờ nhạt phía trời tây. Quê tôi, phía đông là biển, phương tây là dãy Trường Sơn. Trường Canh, sao mọc từ biển, lặn vào núi. Hiện ra lúc sóng gào gió lộng của đại dương, lặn vào chốn lặng im rừng thẳm. Ấy là tôi nhìn Trường Canh trong cái không gian giới hạn từ địa lý Việt Nam.

Tương đồng như thế, từ khởi đầu thời đại đại biến, 1945, đã có Phạm Duy. Buổi kết thúc chiến chinh, 1975, vẫn còn Phạm Duy. Khởi đầu cuộc bỏ nước ra đi, Phạm Duy đi trước ngày 30 tháng Tư 1975. Quy hồi cố quận, Phạm Duy về, tương đối sớm so với những người cùng hoàn cảnh với ông.

Trong cái dài dặc ấy, Phạm Duy luôn có sáng tác mới. Như sao Trường Canh suốt đêm tỏa ánh sáng. Ánh sáng, chỉ mờ dần khi đêm sắp tàn.

Phạm Duy, có một phong cách, một bản lĩnh, một sức sáng tạo đường trường. Viết mãi không thôi như thở mãi không ngừng. Thôi viết là ngưng thở.

Trong mấy chục năm sống trong nước, cách nhau một Thái Bình Dương, tôi với ông thỉnh thoảng vẫn có thư từ cho nhau. Trong nước tôi vẫn được nghe những bản nhạc của ông sáng tác sau này, qua các băng đĩa, hàng chui.

Năm 1996, đọc được Hồi ký của ông, được chép trong đĩa nhựa, nhờ một nhạc sĩ trẻ [TK] chuyển cho tôi. Ông kỹ lưỡng lắm, phải có mật mã, password, mới đọc được. Chừng như các bản in thành sách của ông có khác phần nào với bản đĩa mà tôi đã đọc.

Trong thư từ qua lại, có một lá thư tôi thấy thái độ của ông khá lạ. Lòng ông đầy trăn trở.

Nội dung thư:

Midway City. 26/9/96

Anh Cung Tích Biền,

Cảm ơn anh đã viết thư nhắc lại những ngày xa xưa… ”khi ta còn thơ”!
Tôi rất thú vị khi biết rằng anh và nhiều người vẫn còn nghe nhạc Phạm Duy. Tôi nhìn nhận điều anh nói trong thư là đúng nhưng từ lúc từ chối làm thằng mõ trong làng để thành Bố già của thế kỷ [Từ khi soạn Rong ca 1988], tôi tạm quên “đối tượng thưởng ngoạn” [họ chỉ muốn nghệ sĩ là con người tình cảm và con người xã hội của thời đại mà thôi] để làm nốt phần nhạc tâm linh mà tôi đã khơi mào từ lúc còn trẻ [từ lúc đứng bên cầu biên giới chẳng hạn]. Do đó có rong ca, thiền ca, trường ca Hàn Mặc Tử sau tâm ca, đạo ca, v.v…

Rất thú vị khi anh cho biết đã nghe Thiền ca số 8 nhan đề Răn, không ngờ mình muốn quên đối tượng thưởng ngoạn mà họ vẫn nhớ mình [cần phải nói với anh là loại nhạc tâm linh của tôi rất không ăn khách !!!]

Về chuyện đốt sách chôn học trò, tôi nghĩ rằng Đại Đế họ Tần có một canh bạc phải chơi, đang chơi, chưa tàn canh… Trong khi ván cờ của tôi đã xong rồi! Xin quên mister Tần đi!

Đã là người tình tuyệt vời [nhan đề một ca khúc Phạm Duy] và người “đánh trâu” à quên đấu tranh nhiệt tình của xã hội bây giờ xin cho tôi được sống với tâm linh của tôi, của anh, của chị, của em:

Tôi là tôi, tôi cũng là em
Em là tôi, em cũng là anh
Là Xuân con bướm hút nhụy Xuân Tình
Là gió Xuân Hồng, là cơn Xuân Vũ
Là Ý thơ nồng, là trang giấy Xuân Thư…

Xuân Thư là tên một người tình ở Paris…

Chúc anh vui mạnh. Tôi có lời thăm hỏi tất cả người yêu, kẻ ghét./.

Rất thân ái

Phạm Duy

Thư ghi, tháng Chín, 1996. Cũng đà trên một phần tư thế kỷ trôi qua. 2022, tôi ngồi viết những dòng này, nhà tôi đường Jackson, một nơi chốn chừng như rất gần nhà của ông năm xưa, cùng thành phố Midway. Buổi chiều thả bộ, lang thang đường Bolsa, qua Newland, là đến Hunter Lane.

Phạm Duy ở Midway City, ông đặt tên cho nó, cũng là dịch ra tiếng Việt, một cách thơ mộng, là Thị trấn Giữa Đàng. Trời Cali, chiều êm, lại nghĩ có Động Hoa vàng đâu đây, lại nhớ:

Ϲhim ơi chết dưới cội hoa
Tiếng kêu rơi rụng giữa giang hà
Mai ta chết dưới cội đào
Khóc ta xin nhỏ lệ vào thiên thu.

* * *

Tôi mượn lời Nguyễn Hưng Quốc, một nhà nghị luận tài hoa, cái nhìn về Phạm Duy, như một kết thúc cho sự tình:

“Tất cả những nghi ngờ, bất đồng hay bất mãn [rồi đây] sẽ dần dần chìm vào quên lãng. Con người thật của Phạm Duy sẽ không còn án ngữ trước khối lượng tác phẩm đồ sộ và nguy nga của Phạm Duy. Một lúc nào đó, nghĩ đến Phạm Duy, người ta sẽ không còn nhớ đến những chuyện đi kháng chiến rồi dinh tê, chuyện vào miền Nam rồi vượt biên hay chuyện sống ở Mỹ rồi quay về Việt Nam; người ta cũng không còn nhớ những câu phát biểu nhiều khi rất tùy hứng và tùy tiện của ông. Lúc ấy, nghĩ đến Phạm Duy, người ta chỉ nghĩ đến những bài hát do ông sáng tác. Lúc ấy, tôi nghĩ, ông mới sống thật cuộc sống của ông. Một cuộc sống thật vĩ đại.”

Cung Tích Biền
(14.924 Jackson road, 4-2022. Đọc lại, Garden Brook Senior Village 1-2023)

Be the first to comment

Leave a Reply

Your email address will not be published.


*