Một Phần Năm Học Sinh Trường Công Boston Có Thể Đương Nhiên Bỏ Học

Máy vi tính xách tay đầu tiên mà em Jose Escobar được tặng không hoạt động. Em chật vật để xin thay thế. (Suzanne Kreiter/BBT Globe)

Những thách thức về kỹ thuật, ngôn ngữ khiến học sinh không thể tiếp tục học trực tuyến

Có ít nhất 10 ngàn học sinh trường công Boston không đăng nhập vào lớp học trong tháng 5, cho thấy các em có thể đương nhiên bỏ học mà việc đến trường chính thức dừng lại hai tháng trước khi các trường học đóng cửa để làm chậm sự lây lan của coronavirus.
Thống kê của thành phố cho thấy hơn 20% học sinh của học khu đã không đăng nhập vào bất kỳ trang mạng học tập chính nào kể từ ngày 4 tháng 5 trở đi, có nghĩa là hàng ngàn học sinh không tham gia các lớp học trực tuyến hoặc nhận bất kỳ bài tập về nhà làm nào.
Dữ liệu phù hợp với các con số trước đó cho thấy khoảng 22% học sinh chưa bao giờ đăng nhập vào Google Classroom (Lớp học mạng Google). Số này trong toàn thể học khu bao gồm một phần tư học sinh viên da đen và Latino cũng như 21% học sinh da trắng.
Cấp lãnh đạo khu học chánh cho biết dữ liệu đăng nhập không ghi hết được chi tiết đầy đủ vì một số ít trường đang sử dụng các trang mạng riêng biệt, không được khu học chánh theo dõi và một số học sinh không xác định đang học ngoại tuyến.
Nhưng các viên chức thừa nhận rằng số liệu này khá rắc rối vì nhiều học sinh vắng mặt đến từ các gia đình đã phải gánh chịu đại dịch – cả về kinh tế và sức khỏe – và rất khó tìm được thời gian để học. Em Jose Escobar, học sinh lớp 10 trường trung học Brighton, em chưa tham gia bất kỳ lớp học trực tuyến nào, cho biết mọi người trong nhà bị mất việc hoặc làm việc quá ít giờ, khiến họ không đủ tiền xài điện thoại, bao gồm cả điện thoại riêng của em.
Và em cũng không có máy tính xài được. Cậu ta cũng phải chờ hơn cả tháng mới nhận được một Chromebook miễn phí từ học khu vì khả năng tiếng Anh hạn chế và thiếu kinh nghiệm trong việc lập thủ tục hành chánh ở đất nước này.
Em Escobar nói, bằng tiếng Tây Ban Nha: “Tôi cần đến lớp học để cải thiện tiếng Anh. Trường có thể bắt tôi học lại lớp 10”. (Học khu cho biết sẽ không bắt ở lại lớp bất kỳ học sinh nào vì lý do bỏ học trong mùa xuân này, nhưng em Escobar chưa biết được tin đó).
Nhiều học sinh, nhưng không phải tất cả, bỏ học trên mạng là những học sinh đang học tiếng Anh, chiếm gần một phần ba số lượng ghi danh của học khu. Những học sinh khác có thể là người vô gia cư, không thể truy cập trang mạng ở nhà hoặc bị choáng ngợp bởi nhu cầu tiền bạc hay sức khỏe trong gia đình, hoặc không còn hứng thú học hành khi không thể đến lớp thường xuyên mỗi ngày.
Những con số vắng mặt đáng báo động đã khiến Nghị viên Hội đồng Thành phố Boston Andrea Campbell yêu cầu cung cấp tin chi tiết về việc có mặt và hoàn thành bài tập của từng trường học; bà cũng muốn có tất cả các dữ liệu về nhu cầu kỹ thuật chưa được đáp ứng của học sinh khắp thành phố.
Bà nói: “Tôi muốn có thêm dữ liệu từ học khu để chúng tôi biết số học sinh và gia đình nào nhận được dịch vụ và số nào không. Có thế, chúng tôi mới tập trung vào việc giúp đỡ những học sinh ở ngoài luồng”.
Trận đại dịch cho thấy có bao nhiêu trong số 50 ngàn học sinh trường công Boston dựa vào sự hỗ trợ trực tiếp để giúp các em đứng vững. Một nửa số học sinh đăng nhập vào lớp học trực tuyến hoặc gửi bài tập làm vào mạng mỗi ngày. Các giáo viên cũng đang “điểm danh” học sinh – đôi khi ngoài mạng – dựa theo việc giao tiếp và báo cáo mức độ tương tác cao hơn: khoảng 84% mỗi ngày. (Tỷ lệ tham gia hàng năm trước đại dịch là khoảng 92%, bao gồm cả những học sinh đang học tiếng Anh).
Một số các gia đình cần sự giúp đỡ căn bản về đủ mọi thứ, từ việc sử dụng máy vi tính do trường cấp cho đến theo dõi Thẻ chuyển Trợ cấp được gửi cho học sinh để trang trải chi phí bữa ăn trưa. Không phải luôn dễ dàng để có được sự giúp đỡ đó.
Cô Judenie Dabel, điều phối viên thanh thiếu niên tại the Center to Support Immigrant Organizing (Trung tâm Hỗ trợ Tổ chức Nhập cư) ở Boston cho biết: “Thủ tục hành chánh quá rườm rà. Cuộc khủng hoảng cho thấy hệ thống vận hành không thích hợp cho người nhập cư và những học sinh khác phải tự tranh đấu cho mình và cha mẹ của mình”.
Một số người nói, đây cũng là một cơ hội cho các khu học chánh và cơ quan chính phủ khác tìm cách phục vụ học sinh và gia đình tốt hơn.
Ông Paul Reville, người sáng lập the Education Redesign Lab của Harvard’s Graduate School of Education phát biểu: “Một trong những hy vọng của tôi là toàn bộ cuộc khủng hoảng này mang đến một sự thay đổi mô hình, các trường học nên tránh xa vai trò của một bộ máy quan liêu cá nhân với cách giải quyết “một phương thức cho mọi trường hợp” và hướng tới “một cách tiếp cận riêng biệt thích ứng hơn”. Điều đó bao gồm việc sẵn sàng giúp đỡ các học sinh và gia đình không nói hay đọc được tiếng Anh hoặc không thường xuyên sử dụng máy vi tính”.
Hiện tại, khu học chánh đã có một thay đổi: Thiết lập một đường dây gọi trực tiếp, bằng 10 thứ tiếng, mà các gia đình có thể gọi với bất kỳ câu hỏi nào. Đây là một bước tiến được nhiều người ủng hộ ca ngợi sau khi chờ đợi đã quá lâu.

* * *

Phải nói là trong hầu hết các trường hợp, khu học chánh đã tích cực và giải quyết cho các học sinh cần kỹ thuật trong những ngày sau khi các trường học đóng cửa.
Tính đến nay, Boston phân phối hơn 31 ngàn Chromebook và hơn 2.600 điểm truy cập Wi-Fi cho học sinh. Tuy nhiên, vẫn chưa rõ có bao nhiêu học sinh vẫn cần truy cập vào máy vi tính và trang mạng, hoặc mức độ thiếu kém kỹ thuật này ảnh hưởng bao nhiêu đến số lượng lớn học sinh vắng mặt thường xuyên trong các buổi học trực tuyến. Học khu vẫn còn có 116 yêu cầu cấp Chromebook.

Nhu cầu kỹ thuật căn bản chắc hẳn đã giữ không cho Escobar lên mạng

Vào ngày 16 tháng 3, ngày cuối cùng của lớp học tại trường Brighton High, em chọn một chiếc Chromebook do trường cấp. Nhưng khi đem về nhà ở Brighton, máy vi tính không chạy.
Vài ngày sau, Escobar nói, em tìm đến giáo viên dạy ESL tiếng Anh của mình, ông Ramon Trinidad, hỏi phải làm sao. Ông Trinidad là một trong những giáo viên duy nhất mà em Escobar nhớ tên, ông dạy học rất sinh động, và ông Trinidad, cũng là một di dân, nói tiếng Tây Ban Nha.

Trước khi điện thoại của Escobar ngừng hoạt động, ông Trinidad gửi hướng dẫn bằng tiếng Tây Ban Nha để em điền vào một mẫu đơn trực tuyến yêu cầu gởi một máy vi tính mới (bản hướng dẫn, trong ít nhất vài ngày trước, chỉ có sẵn bằng tiếng Anh, theo ông Trinidad). Em Escobar nói rằng em đã điền đơn nhiều lần.
Học khu nhận được một e-mail từ Escobar vào ngày 16 tháng Tư, theo một phát ngôn viên, nói thêm rằng giới chức trả lời một tuần lễ sau đó với yêu cầu làm hẹn để nhận một máy vi tính thay thế. Escobar cho biết em không bao giờ nhận được tin nhắn này.
Em Escobar thừa nhận rằng có thể em đã không điền đơn đúng cách: “Trước năm ngoái tôi chưa bao giờ biết sử dụng máy vi tính. Tôi đâu có tiền để mua.”
Em nói chuyện với phóng viên khi ngồi trong bãi đậu xe nhỏ phía sau tòa nhà chung cư hai tầng, nơi em đang ở chung một căn hộ với năm người thân. Một đống xe đạp – cách di chuyển chính của cả gia đình đến công việc nhà hàng họ từng có ở Harvard Square – đang dựng dưới cầu thang.

* * *

Khu học chánh thường để tùy quyền các trường học theo dõi các học sinh vắng mặt. Hướng dẫn của học khu yêu cầu giáo viên và nhân viên kết nối các học sinh mà họ quan tâm với các nhóm giải quyết vấn đề ở trường. Nếu một giáo viên quá lo lắng về tình trạng sức khỏe của một học sinh, họ phải thông báo cho văn phòng trung tâm để cử một nhân viên xã hội đến nhà học sinh.
Có một khoảng cách khá lớn giữa số lượng học sinh mà giáo viên đang điểm danh “có mặt” mỗi ngày vì tham gia vào một số hoặc tất cả các lớp học từ xa – trung bình là 84% – và số lượng nhỏ hơn của các học sinh chưa một lần đăng nhập vào Google Classroom.
Một phát ngôn viên cho biết, một số khác biệt có thể giải thích được vì một nhóm trường học có hoạt động trực tuyến không được khu học chánh theo dõi. Học sinh nhỏ hơn và những em có nhu cầu thường làm bài vở cho sẵn. (Học sinh khuyết tật thường ít đăng nhập hơn bất kỳ nhóm học sinh nào khác.)
Tuy nhiên, Tổng Giám đốc Sở Brenda Cassellius mới đây có yêu cầu một số hiệu trưởng giải thích về sự chênh lệch này.
Đối với nhiều giáo viên và học sinh, đặc biệt là các em học tiếng Anh, nạn đại dịch đã làm nổi bật vai trò chính của từng thầy cô trong việc giúp đỡ trẻ đạt kết quả học tập. Khi những mối quan hệ đó giảm đi – hoặc không còn nữa – thì các việc như ghi tên đi học hoặc nhận máy vi tính xách tay trở nên phức tạp hơn.
Cô Elizabeth Reynold Lupo, một giáo viên tại trường tiểu học Russell ở Dorchester, rất quen thuộc với những học sinh vắng mặt từ việc học trực tuyến, đã dành rất nhiều giờ suốt hai tháng qua để cố gắng giữ liên lạc. Cô chạy lên xuống khắp Boston, thậm chí có ngày lái xe tới tận Lowell để giúp một học sinh có được chiếc máy vi tính.
Vào một buổi sáng thứ Năm mới đây, cô Lupo lái xe vòng quanh khu Dorchester, đưa các phong bì lớn đựng những ghi chú viết tay, sách và các sinh hoạt cho hàng chục học sinh chưa đăng nhập học qua mạng. Hầu hết các gia đình không thể nhận được và nhắn tin cho cô để lại tài liệu trước cửa nhà.
Cô Lupo cố giúp đỡ các gia đình vượt mọi trở ngại kỹ thuật, từ việc truy cập điểm nối kết mạng đến tìm cách sạc điện máy vi tính. Cô thuộc một nhóm của trường Russell có nhiệm vụ hỗ trợ các học sinh vắng mặt. Tất cả trường trong thành phố đều có những nhóm như thế, nhưng họ không bắt buộc phải đến thăm từng gia đình ở nhà hoặc tốn nhiều thời giờ như cô Lupo và các đồng nghiệp của cô đã làm.
Cô Lupo cuối cùng mới biết lý do vắng mặt của một học sinh Cape Verdean trên mạng là vì gia đình tùy vào chiếc điện thoại thông minh của người mẹ để nối mạng. Mà vào những ngày cuối tháng, họ đã cạn hết dữ liệu cấp sẵn.
Nỗ lực của cô trở nên phức tạp vì thực tế là nhiều gia đình đã dời nhà trước đại dịch mà không thông báo chính thức cho học khu – bởi yêu cầu rườm rà phải trực tiếp đến gặp và cung cấp hai bằng chứng cư trú.
Cô Lupo cho biết: có ít nhất 20 gia đình tại trường tiểu học Russell chỉ có địa chỉ gửi thư cũ trong hồ sơ trung ương. Cô phải nhắn tin cho họ các hướng dẫn thay đổi địa chỉ mới.
Hệ thống trường học Boston gần đây đã giải quyết vấn đề này bằng cách cho phép các gia đình được điện thoại thay đổi địa chỉ. Khi trường học mở cửa lại, khu học chánh có kế hoạch tiếp tục cung cấp các dịch vụ qua điện thoại, càng nhiều càng tốt, theo lời một phát ngôn viên.
Học khu cũng nên loại bỏ yêu cầu đối với hai tài liệu chứng minh địa chỉ của học sinh, theo cô Ruby Reyes, giám đốc của the Boston Education Justice Alliance (Liên minh Công lý Giáo dục Boston) cho biết. Ở một thành phố như Boston, nơi chi phí nhà ở tăng vọt và nhiều gia đình buộc phải chia sẻ căn hộ với các gia đình khác, yêu cầu những giấy tờ này cho thấy văn phòng của học khu không “hiểu gì mà những người nghèo phải thường gánh chịu để sống còn”.

* * *

Sau vài tuần trôi qua em Escobar vẫn không nhận được máy vi tính, thầy của em, ông Ramon Trinidad, phải can thiệp trực tiếp hơn. Ông cố thay đổi địa chỉ gia đình trên hồ sơ với trường học, có vậy máy vi tính mới sẽ được gởi đến đúng nơi, thì mới thấy mức độ khó khăn cho một gia đình thiếu giấy tờ chứng minh nơi cư trú.
Cuối cùng, vào tuần trước, khi một phóng viên của báo Boston Globe hỏi thẳng quan chức học khu về tình trạng em Escobar, họ đã nhanh chóng đưa một máy vi tính xách tay mới cho ông Trinidad để mang đến cho Escobar.
Bây giờ thì em có một máy vi tính chạy tốt, em rất hào hứng tiếp tục việc học – vừa để cải thiện kỹ năng tiếng Anh, vừa chu toàn bổn phận của mình.
Em nói: “Bổn phận của tôi là một học sinh phải học tập giỏi”.
Tuy vậy, em Escobar cũng có phần lo rằng sự tiến bộ với tiếng Anh đã bị đình trệ. Mọi người chung quanh em đều nói tiếng Tây Ban Nha, và cậu bé đã ngừng luyện tập tiếng Anh kể từ khi rời trường vào tháng ba. Em biết nhiều bạn cùng lớp đã đăng nhập học trước khá xa. Em nói: “Tôi hy vọng sẽ sớm bắt kịp”.

Bianca Vázquez Toness
Theo BBT Globe ngày 23 tháng 5 năm 2020

Nguồn: https://www.bostonglobe.com/2020/05/23/metro/more-than-one-five-boston-public-school-children-may-be-virtual-dropouts/?s_campaign=breakingnews:newsletter

Be the first to comment

Leave a Reply

Your email address will not be published.


*