Cảnh sát hộ tống 64 người dân Hàn Quốc tại phi trường Inchon ngày 18 Tháng Mười, 2025. Họ được trả về từ Cambodia sau sự can thiệp của chính phủ Nam Hàn. Họ vừa là nạn nhân vừa là kẻ tiếp tay lừa đảo cho các ông trùm Trung Quốc. (Hình: AFP/Getty Images)
Ngày 15 Tháng Mười, 2025, thi thể một sinh viên Nam Hàn được phát hiện gần khu vực núi Bokor thuộc tỉnh Kampot (Cambodia), sau khi cậu bị tra tấn dã man tại một “trung tâm lừa đảo trực tuyến.”
Vụ việc đã làm rúng động dư luận Nam Hàn và khiến chính phủ Seoul lập tức có những phản ứng quyết liệt. Ngay trong 48 giờ, Bộ Ngoại Giao Nam Hàn triệu tập khẩn cấp đại sứ Cambodia, Thủ Tướng Han Duck-soo họp đặc biệt về bảo hộ công dân ở nước ngoài, đồng thời ra lệnh cấm công dân Hàn đến ba khu vực đánh dấu “màu đen” ở Cambodia gồm Bokor, Bavet và Poipet, nơi được xem là “ổ lừa đảo xuyên quốc gia.”
Chính phủ Cambodia, dưới sức ép ngoại giao, đã bắt giữ 64 công dân Nam Hàn bị cáo buộc tham gia đường dây tội phạm mạng, và nhanh chóng bàn giao họ cho Nam Hàn sáng 18 Tháng Mười. Ngay sau đó, Thủ Tướng Hun Manet phải công khai xin lỗi và cam kết bảo vệ người Hàn trên lãnh thổ Cambodia.
Đây không chỉ là một vụ án hình sự, mà là phép thử về trách nhiệm của chính quyền đối với công dân. Và chính phủ Nam Hàn đã cho thấy, họ không chấp nhận im lặng. Công dân của họ, dù ở cách xa quê nhà đến hơn 5 giờ bay, vẫn được bảo hộ nghiêm ngặt.
Cũng là nạn nhân với nạn buôn người Châu Á, nhưng phản ứng của Việt Nam thì khác
Trái ngược hoàn toàn, chế độ Cộng Sản Việt Nam, dù là nước láng giềng liền biên giới với Cambodia, nơi người Việt qua lại dễ dàng, lại hầu như im tiếng trước thảm trạng hàng vạn công dân bị lừa, bị bắt giữ, bị cưỡng bức lao động tại các trung tâm lừa đảo.
Theo báo cáo quốc tế, chỉ trong năm 2024-2025, hàng nghìn người Việt bị phát hiện trong các “khu phức hợp tội phạm mạng” dọc biên giới Cambodia. Tuy vậy, con số nêu trên chỉ là phần nổi rất nhỏ trên tảng băng khổng lồ đang khuất sâu bên dưới.
Khác với Nam Hàn, nơi chính phủ lên tiếng, truyền thông cập nhật hàng ngày, công dân được bảo hộ, thì ở Việt Nam, mọi phản ứng đều ở cấp hành chính thấp: Bộ Ngoại Giao “phối hợp” biên phòng “tiếp nhận người,” không có phát ngôn cấp thủ tướng, không có thông tin điều tra, không có cam kết bảo vệ công dân. Mọi phản ứng đều thụ động và nhạt nhòa như có vẻ đồng tình, hay đồng phạm với các tổ chức buôn người.
Không chỉ vậy, phía Việt Nam chưa từng công bố con số nạn nhân tử vong, mất tích, hoặc đang bị giam giữ trong các trung tâm này. Mọi thứ chìm trong im lặng, như thể công dân Việt Nam đang thọ nạn tại Cambodia là người không liên quan.
Khi quyền lực không đến từ dân, thì trách nhiệm với dân cũng không tồn tại
Sự khác biệt trong cung cách hành xử không chỉ là câu chuyện về năng lực hành chính hay ngoại giao. Nó bắt nguồn từ nguồn gốc hình thành của quyền lực chính trị.
Tại Nam Hàn, chính phủ được hình thành từ bầu cử tự do, do người dân trực tiếp lựa chọn. Mỗi quan chức, từ cấp cao nhất là tổng thống, thủ tướng hoặc các bộ trưởng đều biết rằng quyền lực của họ đến từ lá phiếu của nhân dân, và nếu họ không hành động đúng mực vì quyền lợi của nhân dân, họ sẽ bị loại bỏ.
Chính vì thế, phản ứng của chính quyền Nam Hàn trước sinh mạng một công dân không chỉ là trách nhiệm pháp lý, mà là bổn phận chính trị, bảo vệ công dân là bảo vệ tính chính danh của chính quyền.
Ngược lại, tại Việt Nam, quyền lực không đến từ bầu cử tự do, mà từ cơ chế “đảng cử, dân bầu” hình thức. Các vị trí lãnh đạo không do nhân dân chọn, mà do đảng viên bầu lẫn nhau trong nội bộ, trong đó, người dân chỉ còn là khán giả trong chính ngôi nhà của mình. Hệ quả là người dân không phải là “chủ thể của quyền lực,” mà chỉ là “đối tượng bị quản lý.”
Trong một cơ chế như vậy, ý thức trách nhiệm với dân trở nên mờ nhạt, bởi quan chức không sợ mất phiếu, không cần lòng dân để duy trì quyền lực. Khi công dân bị bắt giữ, bị tra tấn, bị giết ở nước ngoài, sự im lặng của chế độ không phải vì thiếu thông tin, mà vì thiếu động lực chính trị để hành động.
Theo đó, việc các công dân tử vong chỉ còn là sự thay đổi con số thống kê, không ảnh hưởng gì đến quyền lực của các quan chức đang nắm giữ quyền lực.
Sự vô cảm chính trị
Trong nhiều thập kỷ qua, ước tính có hàng vạn người Việt bị buôn bán, bị ép lao động hoặc bị lừa làm việc trong các khu vực nguy hiểm ở Cambodia, Lào, Myanmar, Thái Lan, Trung Cộng. Nhiều gia đình đã phải tự đi chuộc con, cứu người thân, việc đáng ra thuộc trách nhiệm bảo hộ của chế độ, theo cách như chính phủ Nam Hàn đã làm.
Từ đó, niềm tin của người dân vào chế độ bị xói mòn nghiêm trọng. Khi một người bị bắt ở nước ngoài, kêu cứu công an mà chỉ nhận lại sự im lặng, thì rõ ràng “bảo hộ công dân” chỉ còn là khẩu hiệu. Sự vô cảm này không chỉ làm tổn thương nhân dân, mà còn hạ thấp vị thế quốc gia. Vì lẽ, một chính quyền không thể bảo vệ dân mình ở nước ngoài, thì khó có thể được tôn trọng trên chính trường quốc tế.
Đáng nói hơn, Cambodia là nước láng giềng, sát cạnh Việt Nam ở mạn Tây Nam. Nếu chế độ Hà Nội thực sự quan tâm, việc phối hợp điều tra, ngăn chặn, thậm chí cứu người là hoàn toàn khả thi. Nhưng thay vì chủ động hành động, chính quyền chọn cách im lặng, để người dân tự xoay xở và chịu đựng.
Cái giá của sự im lặng
Sự thụ động, im lặng của chế độ không phải là sự “trung lập.” Nó là một lựa chọn chính trị. Khi chế độ thờ ơ với sinh mạng công dân, họ đang gửi đi một thông điệp nguy hiểm: rằng người dân không phải là sự ưu tiên của chế độ.
45 người Việt Nam được Biên Phòng CSVN tiếp nhận tại một khu vực cửa khẩu tỉnh Tây Ninh ngày 17 Tháng Bảy, 2025. Họ là những người bị lừa sang Cambodia làm “việc nhẹ lương cao” nhưng thực chất là dùng điện thoại và Internet để lừa gạt đồng bào mình theo lệnh của các ông trùm Trung Quốc. (Hình: Vietnamnet)
Trong khi đó, quan chức Nam Hàn có thái độ rất khác, họ thừa hiểu rằng, bảo vệ công dân là cách bảo vệ nền dân chủ. Vì dân là chủ, nên mất một người dân là mất đi phần uy tín của chính quyền hiện hữu. Qua so sánh về hành xử giữa chính phủ Nam Hàn và chế độ Cộng Sản Việt Nam cho thấy, khi chính quyền không do nhân dân bầu thì nhân dân không được bảo vệ.
Sự khác biệt ấy không chỉ là vấn đề năng lực, mà là vấn đề bản chất của quyền lực. Chính quyền được bầu bởi dân thì vì dân mà sống; còn chính quyền tự phong thì chỉ biết vì chính mình mà tồn tại.
Nếu chế độ Cộng Sản Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì sự độc tài về chính trị, tước bỏ quyền tự do bầu cử và ứng cử của nhân dân, thì sinh mạng công dân Việt Nam tiếp tục bị thả nổi, không chỉ trong nước mà cả ở nước ngoài. Điều đó tựa như lời thú nhận cay đắng về sự tha hóa của quyền lực chính trị đang tồn tại tại Việt Nam.
Đặng Đình Mạnh
Chuyện Vỉa Hè
Nguồn: https://www.nguoi-viet.com ngày 19/10/2025

Be the first to comment