Giới thích nhạc xưa, hệ thống youtube có thể cung cấp khá đầy đủ, chỉ cần đánh tên tác giả hay tựa nhạc phẩm là tha hồ lựa chọn, điều đáng chú ý nhứt là dầu chiến tranh đã qua gần nửa thế kỷ rồi mà nhiều nhạc phẩm thời chiến ở miền Nam vẫn luôn rất thịnh hành hơn hẳn các nhạc phẩm về chiến tranh ở miền Bắc, không những ở hải ngoại mà cả dân ở trong nước cả Nam lẫn Bắc, không những do các ca sĩ kỳ cựu mà rất nhiều ca sĩ trẻ nổi tiếng ở trong nước trình diễn, nhạc phẩm cũng giống như một món hàng, trong sinh hoạt của một nền kinh tế thị trường đích thực là do thị hiếu của khán thính giả chớ không phải do quyết định hành chánh như thời bao cấp xã hội chủ nghĩa, người dân không có quyền lựa chọn nào khác hơn là chấp nhận những gì được cung cấp.
Cần ghi nhận là khi chiếm được miền Nam, mọi văn hóa phẩm trong đó các nhạc phẩm đang lưu hành ở miền Nam dầu phần lớn chỉ liên hệ đến tình cảm thông thường hay cảnh đẹp thiên nhiên, tức không dính dáng gì đến chiến tranh hay chính trị, đều bị chính quyền Việt cộng nhất loạt cấm lưu hành, dầu vậy nó vẫn âm thầm xuất hiện trong các buổi sinh hoạt riêng tư gọi là văn nghệ «chui», liệu không thể ngăn cấm một cách phi lý mãi, họ mới dần dần nới lỏng – ghi rõ những bản nhạc nào được lưu hành, tuy vậy cũng chỉ hạn chế trong các buổi trình diễn công cộng hay các chương trình truyền hình, truyền thanh của nhà nước, trong các phòng trà ca nhạc tư ở trong nước, các ca sĩ vẫn hát các nhạc phẩm cũ theo lời yêu cầu của khán thính giả và khi hệ thống youtube được phát triển thì mọi cấm đoán đều bị vô hiệu hóa.
Thoạt trông thì có vẻ bất thường, một mặt ngăn cấm, mặt khác làm ngơ, nhưng thật ra không có gì khó hiểu, hát hò mà không ai xem thì dẹp tiệm sao? Sở dĩ ở miền Bắc trước năm 1975, người dân phải chấp nhận các loại sản phẩm do nhà nước cung cấp vì đó là món hàng duy nhứt, người dân không có một sự lựa chọn nào khác.
Nhờ tiếp cận cuộc sống của dân miền Nam, dân miền Bắc sáng mắt ra như nhà văn Dương Thu Hương kể: “Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam người ta có thể nghe bất cứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ… nếu người ta muốn. Đó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua chế độ man rợ.” (trích từ Ký 2, Đinh Quang Anh Thái, trang 178).
Đảng Cộng sản luôn chủ trương chiến tranh, ngay khi đặt bút ký Hiệp định Geneve 1954 chia đôi đất nước, họ đã chuẩn bị cho cuộc xâm lăng miền Nam, không tập kết hết ra Bắc, họ cài người ở lại để gây rối loạn xã hội miền Nam, hỗ trợ cuộc xâm lăng của miền Bắc, nói là miền Bắc chớ thật sự chỉ là đám chóp bu đảng Cộng sản do Hồ Chí Minh cầm chịch như nhà văn Bảo Ninh trong cuốn Nỗi buồn chiến tranh: «Trai đất Việt thực ra không ham chiến trận lắm đâu như người ta hay đồn, hăng chiến phải nói là mấy ông trí thức tuổi sồn sồn bụng to chân ngắn. (trang 83)»
Do chủ trương chiến tranh, với quyền lực và phương tiện, họ tìm đủ mọi cách khích động tinh thần hiếu chiến sắt máu, tiêu biểu trong bài thơ Ba mươi năm đời ta có Đảng của Tố Hữu:
Căm hờn lại giục căm hờn
Máu kêu trả máu, đầu van trả đầu!
Hay
Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong
Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao chủ Tịch, thờ Xít-ta-lin bất diệt.
(Bài ca tháng 10)
Cũng xin nhắc lại là đích thân Hồ Chí Minh đã chọn bài Tiến quân ca của Văn Cao làm quốc ca Việt cộng đầu tiên (hậu thân của Việt minh) trong đó có câu «thề phanh thây uống máu quân thù».
Nghĩ thật chẳng khác nào loài kên kên, sống trên những xác chết, chính Tố Hữu cũng là tác giả các vần thơ ca tụng hết lời hai tên sát nhân khét tiếng hoàn vũ Staline, Mao Trạch Đông:
Đêm qua, loa gọi ngoài đồng
Tiếng loa xé ruột, xé lòng biết bao!
Làng trên xóm dưới xôn xao
Ông sao sáng nhất trời cao băng rồi!
Xta-lin ơi!
Hỡi ôi Ông mất, đất trời có không?
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương Ông thương mười.
(Đời đời nhớ Ông)
Mao Trạch Đông!
Tôi đã thấy: Dáng người cao lồng lộng
Đẹp như một ngọn cờ Hồng
Trên mặt người, mặt đất mênh mông.
(Đường Sang Nước Bạn)
Tố Hữu thật xứng đáng với danh hiệu «bưng bô» đệ nhứt!
Nhận thức văn hóa là phương tiện dễ khích động quần chúng nhứt nên trước khi «tiếp thu» miền Bắc, Việt cộng phát động phong trào chỉnh huấn, nhiều văn nghệ sĩ tên tuổi đã vong thân, nói theo tiếng VC thời đó là bị tẩy não hay lột xác, họ tự phủ nhận quá khứ như Nguyễn Tuân: Trong «Vang bóng một thời», tôi đã đứng về phía bọn phong kiến ăn bám bóc lột thống trị nhân dân lao động …», Xuân Diệu, từ một nhà thơ tình lãng mạn «Run với gió, mơ theo trăng và vớ vẩn cùng mây, …» đã tự thú:
Trước đây bốn tháng, đến trường,
Hồn tôi nghiêng ngã, trí thường hoang mang,
Đường đi đến ánh vinh quang,
Bạn thù lẫn lộn, trái ngang cảm tình,
Kéo dài tâm trạng lênh đênh,
Sống mà lắm lúc như mình bỏ đi.
Hôm nay hết học kỳ Chỉnh Đảng,
Thấy bốn phương ánh sáng lùa vào;
Bước đầu tuy chửa là bao,
Nhưng nghe đã rộng đã cao vô ngần.
«Họa sĩ Tô Ngọc Vân, sau khi kể lể tâm sự một người bị đầu độc đã hằn học đập phá những họa phẩm cũ và hăng hái nói rằng: Đảng đã cho tôi thấy rõ bản chất tử thù của tư tưởng tư sản đế quốc … »
«Nhạc sư Nguyễn Xuân Khoát tự phê bình: Thái độ lừng chừng đứng giữa của tôi thể hiện rõ trong bài Thằng Bờm có cái quạt mo … ». (Trích trong cuốn Việt Nam máu lửa của Nghiêm Kế Tổ)
Những văn thi sĩ biểu bộ chân thật lòng mình, không chấp nhận bẻ cong ngòi bút thì bị trù dập suốt đời như nhà thơ Hữu Loan làm bài thơ Màu tím hoa sim khóc thương người vợ trẻ vắn số thì bị coi là mang tình cảm “tiểu tư sản”:
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê.
Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người gái nhỏ hậu phương.
Tôi về không gặp nàng
Má ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được nhìn nhau một lần
Bài thơ này được Phạm Duy phổ nhạc, nhạc sĩ Dzũng Chinh lấy ý thơ làm nhạc phẩm Những đồi hoa sim.
Hay nhà thơ Phùng Quán dám phơi trần con tim chân chính trong bài thơ Lời Mẹ dặn được Phạm Duy phổ nhạc:
Yêu ai cứ bảo là yêu,
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu
Trên đây là chỉ nêu ra một số tên tuổi tiêu biểu thôi chớ thật ra là hầu hết các nhân vật văn học sừng sỏ còn viết lách dưới chế độ cộng sản như Tú Mở, Thế Lữ, Phan Khôi, Ngô Tất Tố, … đều phản tỉnh cả, đều nhũng như con chi chi cả, nói trắng ra là hèn, lời phán xét nặng nề này là do chính những người từng trải trong chế độ như nhà văn Nguyễn Minh Châu (hàm đại tá quân đội), trong bài “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa”, báo Văn nghệ số kép 49-50 ra ngày 5-12-1987: “Văn chương gì mà muốn viết một câu trung thì phải viết một câu nịnh? Hèn, hèn chứ? Nhà nước mình tận trong tâm can ai mà chẳng thấy mình hèn? Cái sợ nó làm mình hèn”, tác giả nhạc phẩm nổi tiếng Nụ cười sơn cước, nhạc sĩ Tô Hải viết tự truyện «Hồi ký của một thằng Hèn», trong đó ghi nhận: «Tất cả nhà văn, nhà thơ, nhà nhạc, nhà kịch, nhà nọ, nhà kia, … đến nay còn bám cái vú đảng đều là … thằng Hèn! Riêng những thằng kiếm chác bằng cách bợ đít, bưng bô cho đảng … thì chữ hèn đối với chúng cũng không xứng đáng!».
Sở dĩ tên tuổi của họ còn được dân ta biết đến là nhờ miền Nam, nơi vẫn bảo tồn và truyền bá các tác phẩm của họ thời tiền chiến, còn những gì gọi là sáng tác dưới chế độ Việt cộng đều bị chìm vào quên lãng.
Từ đó mà suy thì những gì gọi là sáng tác dưới chế độ cộng sản đều phải làm theo chỉ thị, nên chi những nhạc phẩm thời chiến ở miền Bắc chỉ thể hiện tính tuyên truyền khích động hận thù, không phản ảnh đúng thực trạng xã hội, không phản ảnh đúng tâm tư tình cảm con người, cứ nhìn thẳng vào cái gọi là sáng tác của họ là nhận ra ngay.
Thật vậy, trước nhứt là tính sắt máu trong các nhạc phẩm:
Đồng bào ơi, cùng Bình Trị Thiên đứng lên!
Đứng lên ta nguyền giết loài người lang sói.
Căm thù đây, phải trút hết.
Loài hung tàn, phải quyết hết.
(Bình Trị Thiên khói lửa – Nguyễn Văn Thương)
Mỗi mũi chông nhọn sắc căm thù,
xiên thây quân cướp nào vô đây,
xiên thây quân cướp nào vô đây.
(Cô gái vót chông – Hoàng Hiệp)
Trái hẳn với miền Nam, coi việc lên đường chiến đấu là nghĩa vụ bảo vệ đất nước, bảo vệ đồng bào, không coi quân lính miền Bắc là kẻ tử thù, tự do bày tỏ ước muốn chân thật của mình:
Kẻ thù ta ơi những đứa xâm mình
Ăn muối đá mà điên say chiến đấu
Ta vốn hiền khô ta là lính cậu
Đi hành quân rượu đế vẫn mang theo
Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo
Xem cuộc chiến như tai trời ách nước
Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước
Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi
Thơ Nguyễn Bắc Sơn
Xin hãy hát với nhau lời nguyện cầu
Người Việt mình sao chóng hết thương đau
Và loài người mau sớm biết thương nhau
Để từ đó tôi yêu người,
Để từ đó tôi yêu tôi
(Người tình không chân dung – Hoàng Trọng)
Tôi muốn mọi người biết thương nhau
Không oán ghét không gây hận sầu
Tôi muốn đời hết nghĩa thương đau
Tôi muốn thấy tình yêu ban đầu…
(Tôi muốn – Lê Hựu Hà)
Mong dân hai miền vui sống trong thanh bình:
Đêm nay trăng sáng quá anh ơi
Sao ta lìa cách bởi dòng sông bạc hai màu
(Chuyến Đò Vĩ Tuyến – Lam Phương)
Người ơi ước mong ngày tàn chinh chiến
Ðể toàn dân sống trong cuộc đời ấm êm.
(Về đây anh – Nguyễn Hiền)
Nhiều nhạc phẩm khích động chiến tranh, cổ võ hận thù, lời nhạc thường lập đi lập lại những khẩu hiệu hay huấn thị một cách gượng gạo nhạt nhẽo vô hồn, thường ghép tên Hồ Chí Minh vào, chêm lời «bác» vào:
Đi ta đi, kèn lệnh đã nổi lên rồi, lời thề như tiếng quân ca
Tiến lên đi, tiến lên đi, cùng tiến lên đi
Đi ta đi, lòng khắc sâu vì nợ nước thù thà
Không gì quí hơn độc lập tự do.
(Chẳng Kẻ Thù Nào Ngăn Nổi Bước Ta Đi – Thanh Phúc – Hải Hồ)
Anh vẫn hành quân
Đêm về qua vách núi
Có Bác Hồ chỉ lối
Mắt anh thêm sáng ngời.
(Anh vẫn hành quân – Huy Du)
Người con gái Pa kô con cháu Bác Hồ.
Dù gian khổ vượt núi băng rừng.
Dù mưa bom em không ngại chi.
Đi đánh Mỹ giữ núi rừng.…
Gửi bộ đội Bác Hồ dân thương mà dân quý nhiều lắm.
Giặc chưa hết chưa về.
Dù rừng thương núi nhớ.
Người con gái Pa kô.
(Cô Gái Pa Kô – Huy Thục)
Dặm đường xa ta đi giữa mùa xuân.
Ta đi giữa tình thương của Đảng,
tiếng Bác Hồ rung động mãi trong tim.
(Đường Chúng Ta Đi – Huy Du – Xuân Sách)
Trong cuộc chiến nào cũng có tổn thất nhân mạng, đó là những gương đáng đề cao để mọi người tưởng niệm, còn miền Bắc, đây là dịp để khích động lòng hận thù như:
Anh qua đời, gương anh còn soi.
Lớp lớp người đang vùng đứng dậy.
Hiến mối thù sâu, giết hết giặc Mỹ,
cho đàn em vang tiếng cười vui.
(Nguyễn Bá Ngọc, Người thiếu niên dũng cảm – Mộng Lân)
Trong những bài ca thúc giục ta lên đường.
Tiêu diệt bọn xâm lược Mỹ.
Ta nguyện làm theo đồng chí Nguyễn Viết Xuân giục ta đi!
(Nguyễn Viết Xuân, cả nước yêu thương – Nguyễn Đức Toàn)
Trong khi miền Nam, các gương hy sinh được tưởng nhớ một cách trang trọng, không khơi dậy lòng hận thù kiểu «máu kêu trả máu, đầu kêu trả đầu»:
Anh nằm xuống cho hận thù vào lãng quên
Tiễn đưa nhau trong một ngày buồn
Đất ôm anh đưa vào cội nguồn
Rồi từ đó, trong trời rộng, đã vắng anh
Như cánh chim, bỏ rừng, như trái tim bỏ tình
Nơi đây một lần, nhìn anh đến những xót xa đành nói cùng hư không!.
Trịnh Công Sơn tưởng nhớ phi công Lưu Kim Cương trong nhạc phẩm Cho Một Người Nằm Xuống
Phạm Duy tưởng nhớ phi công Phạm Phú Quốc qua nhạc phẩm Huyền sử ca một người mang tên Quốc:
Trời thanh bao la mở mang cánh cửa mời
Từ anh lên cao anh là nắng
Là trăng hay sao anh nhìn xuống
Nhìn xuống nước non đep tình như gấm như hoa
Anh Quốc ơi tuổi xanh chấp cánh thênh thang
Bình minh lên chiếm không gian đến hoàng hôn chan chứa tình thương
Anh Quốc ơi gặp khi chinh chiến lâu dài
Người phi công giữa khung trời vẫn phải mang số phận con người …
Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh tưởng niệm Pháo đội trưởng binh chủng Nhảy dù Nguyễn Văn Đương trong nhạc phẩm đầy tình người Anh không chết đâu anh:
Anh không chết đâu anh, người anh hùng mủ đỏ tên Đương
Tôi vẫn thấy đêm đêm một bóng dù sáng trên đồi máu
Nghe trong đêm kêu gào từng tiếng súng pháo đếm mau
Và tiếng súng tiếng súng hay nhạc chiêu hồn đưa anh đi anh đi
Anh, anh không chết đâu em, anh chỉ về với mẹ mong con
Anh vẫn sống thênh thang trong lòng muôn người biết thương đời lính
Trong tim cô sinh viên hay buồn thường nhắc nhở những chiến công
Chuyện nước mắt ướt sân trường đại học chuyện anh riêng anh riêng anh.
Và chiến sĩ nhảy dù Nguyễn Đình Bảo trong tác phẩm Người ở lại Charlie:
Anh! Hỡi anh ở lại Charlie.
Anh! Hỡi anh giã từ vũ khí…
Ngày anh đi, anh đi từ tổ ấm.
Anh ơi! Địa danh nào thiếu dấu chân anh
Đợi anh về chỉ còn trơ vầng trán đứa bé thơ tấm khăn xô
Bơ vơ người góa phụ cầu được sống trong mơ
Tou Mrong, Dakto, Krek, Snoul
Trư Khe Sanh gió mù đêm Hạ Lào thức sâu
Anh! Hỡi anh vừa ở lại một mình, vừa ở lại một mình Charlie
Tên vẫn chưa quen người dân thi thành.
Nhân những gương hy sinh trong cuộc chiến, các nhạc sĩ miền Nam đã chuyển tải ước mơ xóa bỏ hận thù mà giới văn nghệ sĩ miền Bắc không bao giờ dám gợi lại, dầu lớp người sau này không biết Lưu Kim Cương, Nguyễn Đình Bảo, Nguyễn Văn Đương, Phạm Phú Quốc là ai, nhưng nội dung nhạc phẩm là một thông điệp đáp ứng tâm tình của con người nên vẫn luôn được mọi người yêu chuộng, dĩ nhiên là những bài hát ca tụng giả tạo kiểu khích động hận thù không còn lừa mị được ai nữa tất phải bị chìm vào quên lãng, ngoài lời ca ý nhạc, giọng ténor nghe thật chối tai của các ca sĩ cũng làm cho khán thính giả không muốn nghe.
Thật vậy, hãy nghe giọng hát ngọt ngào truyền cảm (điệu bolero) của một nữ ca sĩ “nghiệp dư” giữa lòng Hà nội hiện nay, hơn một tiếng rưỡi đồng hồ, cô hát toàn những nhạc phẩm miền Nam, phần lớn liên quan đến cuộc chiến tương tàn, chính khán thính giả miền Bắc không tiếc lời khen ngợi:
@binhanbatanh Cám ơn những nhạc sĩ Miền Nam. Dù chiến tranh khốc liệt nhưng các anh vẫn để lại cho đời những tác phẩm bất hủ.
@levanliem22 Tôi rất cảm đông nhìn thấy tuổi trẻ Hà Nội thưởng thức nhạc tình tự dân tộc! Không sắt máu, hận thù, chém giết! Chúc các em có những giây phút thư giản, tìm lại tuổi trẻ hồn nhiên của mình các em nhé!
@allanyang6671 Giòng nhạc lính bất hủ miền nam trước 1975 đã đi vào lòng người và nhất là giới trẻ sinh sau năm 1975 – tiếng hát bay bổng cất lên giữa thủ đô Hà Nội, Ba đình
Nhìn thực trạng xã hội việt nam ngày nay, chắc không ít người nuối tiếc như tâm trạng của nhạc sĩ Lam Phương trong nhạc phẩm Chiều tây đô:
“Bao năm giải phóng như thế này phải không anh ?”
Tóm lại, sau khi đối chiếu một số nhạc phẩm tiêu biểu trong thời chiến mới thấy ở miền Nam, nhạc sĩ sáng tác theo cảm xúc chân thật của trái tim, họ tha hồ để tâm hồn bay bổng như những cánh chim hải âu mặc tình lượn lờ theo chiều gió giữa bầu trời cao rộng, trái lại giới nhạc sĩ miền Bắc bị ý thức hệ trói cột, không vươn lên nổi, nghĩ thật chẳng khác nào loài chim cánh cụt chỉ lạch bạch lặn hụp ở đầu ghềnh cuối bãi.
hoa tâm tư
Nguồn: https://levantu39.wordpress.comngày 8/7/2023
(Muốn nghe nhạc, xin click vào các tựa)

Be the first to comment