Số Phận Người Công Giáo Ở Lại Miền Bắc Sau 1954

Kỷ niệm 70 năm (1954-2024) hành trình từ Bắc vào Nam đi tìm tự do

Những người di cư 1954 đầu tiên, xuống tàu và vẫy tay tạm biệt người ở lại (Tư liệu DCCT)

Lịch sử Giáo hội Miền Bắc không thể không nhắc tới biến cố di cư (1954-1955), nhất là viết về Giáo hội Công giáo Miền Bắc thời cộng sản.

Ngày 20 Tháng Bảy năm 1954, Hiệp định Geneva được ký kết. Vĩ tuyến 17 trở thành ranh giới tạm thời giữa hai miền Nam – Bắc. Một thỏa thuận đã được ký kết, tại điều 14, quy định trong thời gian 300 ngày, công dân hai miền được tự do đi lại và chọn lựa nơi ở của mình. Cuộc di cư vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam bắt đầu. Có khoảng 820,000 người, trong đó khoảng 75% là người Công giáo, lên đường vào Nam và hơn 150,000 người, đa số là các đảng viên cộng sản, những người chiến đấu trong chiến khu… từ Miền Nam chuyển ra Miền Bắc, theo diện mà những người cộng sản gọi bằng mỹ từ: “tập kết ra Bắc.”

Những nghiên cứu gần đây cho thấy, biến cố di cư năm 1954 đã làm thay đổi cục diện phân bổ người Công giáo ở cả hai miền. Trong khi dân số Công giáo tại miền Nam tăng đột biến, thì tại miền Bắc người Công giáo chỉ còn phân nửa so với trước di cư. Những giáo phận có đông người Công giáo di cư phải kể đến: Phát Diệm với 80,000 người chiếm 72.7% dân số Công giáo của địa phận thời đó; Bùi Chu với 150,000 người chiếm 71.7%; Thái Bình 80,000 chiếm 57.1%…

Không chỉ có giáo dân lên đường vào Nam, một số giám mục cũng lên đường đưa con chiên vào vùng đất mới, như: Đức Cha Tađêo Lê Hữu Từ (Giáo phận Phát Diệm), Đức Cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi (Giáo phận Bùi Chu), Đức Cha Giuse Trương Cao Đại (Giáo phận Hải Phòng). Tại nhiều giáo phận, sau di cư, số lượng các linh mục giảm sút đáng kể. Có những giáo phận số lượng linh mục di cư quá phân nửa, như Thanh Hóa (88.9%), Phát Diệm (87.4%), Hải Phòng (80.6%), Bùi Chu (77.7%)… Có những giáo phận chỉ còn 1 linh mục duy nhất như giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng (x. Lê Ngọc Bích, Nhân vật Công giáo Việt Nam: Các vị Giám mục một thời đã qua đời (1933-1985).

Điều đáng nói không chỉ là số lượng các giáo sĩ, giáo dân Công giáo dịch chuyển vào miền Nam để tránh đại họa CS, để lại một khoảng trống lớn về nhân lực, mà chính cuộc di cư ồ ạt của mọi thành phần dân Chúa Giáo tỉnh Hà Nội đã mang đi tất cả những gì là tinh hoa của Giáo hội Miền Bắc lúc bấy giờ. Nhà thờ trống vắng các con chiên. Các linh mục, các trí thức Công giáo, những giáo dân nhiệt thành cùng các chủ chăn lên đường vào Nam. Những người còn ở lại, hoặc là vì không muốn rời bỏ quê cha đất tổ, hoặc là vì gia đình có người già không đủ sức khỏe để lên đường, cũng có những người vì có mối liên hệ với Việt Minh trước đó và đang trông chờ Việt Minh nắm quyền nên họ đã vui mừng ở lại.

(Tư liệu DCCT)

Bắc Việt nói CIA và giới Công giáo đã kích động người dân đổ xô vào Nam

Theo Peter Hansen, tìm hiểu nguyên nhân sâu xa của cuộc “di cư vĩ đại” này dường như không dễ dàng và càng không giống như những gì kiến thức lịch sử chính thống của “bên thắng cuộc” đã hình dung, rằng CIA đã đứng đằng sau cuộc di cư của người Công giáo bằng cách tung ra đòn đánh tâm lý chiến, đánh vào sự mê tín của những người Công giáo bằng cách phao tin “Chúa đã vào Nam,” rằng cuộc di cư lần này là do “Đế quốc Mỹ và bè lũ Ngô Đình Diệm” dụ dỗ và ép buộc.

Trong thực tế, có rất nhiều nguyên nhân khác nhau thúc đẩy người Công giáo bất chấp nguy hiểm vượt vĩ tuyến 17 vào Nam, trong đó lý do chủ yếu chính là nhằm tránh sự đàn áp tôn giáo cùng niềm tin nơi lời của các vị mục tử dẫn dắt họ. Cuộc di cư này với khoảng gần một nửa tổng số các giáo dân các giáo phận miền Bắc đã tạo nên khoảng trống vô cùng lớn, biến dạng hoàn toàn các cơ chế trong Giáo hội Miền Bắc bấy giờ (x. Peter Hansen, Bac di cư: Catholic Refusees from the North of Viêt Nam and Their Role in the Southern Republic, 1954-1959, Journal of Vietnamese Studies, Vol. 4, No.3, pp. 173-211).

Đức Cha Phaolô Lê Đắc Trọng, trong cuốn hồi ký của mình, đã miêu tả Giáo hội Miền Bắc sau năm 1954 như một “cánh đồng hoang tàn,” các giáo phận người người xuôi Nam, nhiều giáo xứ rơi vào cảnh vườn không nhà trống. Những giáo dân còn ở lại đa phần là “những người bình thường, những người nghèo khó.” Các dòng tu hầu hết xuôi Nam. Cả Hà Nội chỉ còn một dòng tu nam duy nhất là Dòng Chúa Cứu Thế, với linh mục Vũ Ngọc Bích (1914-2004) một mình cai quản Ngôi đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Thái Hà suốt hơn 50 năm trời (x. Giám mục Phaolô Lê Đắc Trọng, Những câu chuyện về một thời, tr. 302 – 310).

Tất cả những dữ kiện đó, cùng với những cuộc bố ráp, bắt giữ của Việt Minh rộng khắp các giáo phận thuộc Giáo tỉnh Hà Nội, nhằm ngăn chặn những người Công giáo muốn vào Nam, báo hiệu một “cuộc thương khó” kéo dài của Giáo hội tại Miền Bắc.

Những ký ức buồn thảm

Giáo hội Miền Bắc kiệt quệ không chỉ vì cuộc di cư lớn lao năm 1954. Với số lượng giáo dân ít ỏi còn ở lại, kể từ đây, Giáo hội Công giáo Miền Bắc bắt đầu phải đối diện với những khó khăn từ chính sách thù nghịch Công giáo của người cộng sản.

Theo Stephen Denney, vì luôn coi Giáo hội Công giáo là “lực lượng cạnh tranh với chế độ mới” nên ngay khi nắm chính quyền, những người cộng sản, một mặt tìm cách hạn chế tầm ảnh hưởng của Giáo hội, mặt khác tìm cách biến Giáo hội thành một thứ “công cụ của nhà nước, trung thành với ý thức hệ và luật pháp của chế độ.”

Thực tế, trong lúc Hiệp định Geneva ký kết còn chưa ráo mực, cuộc di cư hai miền Nam – Bắc còn đang tiến hành, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã cấp tốc thành lập cái gọi là “Ủy ban Liên lạc những người Công giáo yêu nước và yêu hòa bình,” nhằm “tuyên truyền chính sách của chính quyền đối với người Công giáo và động viên các tín hữu ủng hộ chế độ Cộng sản.”

Hội nghị đầu tiên của Ủy ban được nhóm họp lần đầu tại Hà Nội từ ngày 8 đến 11 Tháng Ba 1955, với 191 đại biểu trong đó có 46 linh mục, 8 tu sĩ và 137 các vị đứng đầu ban hành giáo các giáo xứ. Hội nghị bầu ra một ủy ban chấp hành, đứng đầu là một nhóm nhỏ các linh mục ủng hộ Việt Minh gồm có Cha Vũ Xuân Kỷ (65 tuổi, xuất xứ tỉnh Nam Định) làm chủ tịch, Cha Hồ Thành Biên (65 tuổi, xuất xứ tỉnh Sóc Trăng) làm phó chủ tịch. Các linh mục khác đảm nhiệm các vai trò nổi bật trong ủy ban gồm có Cha Nguyễn Thế Vịnh (tỉnh Ninh Bình) và một người miền Nam tập kết, Cha Võ Thành Trinh.

Mục tiêu của ủy ban này, như được hội nghị dự kiến, là giúp xây dựng chủ nghĩa xã hội và nhằm “giải thoát người Công giáo Việt Nam khỏi ảnh hưởng chủ nghĩa đế quốc ngõ hầu phục hồi tư cách xứng đáng cho Mặt trận Tổ Quốc và quốc gia.” Một xuất bản phẩm hằng tuần, tờ Chính Nghĩa, được Ủy ban thành lập, truyền thông suốt ba thập niên sau đó các quan điểm của người Công giáo “tiến bộ” và chỉ trích các giám mục và linh mục bị phán đoán là quá bảo thủ. (x. Pedro Ramet… “Catholicism and Politics in Communist Societies – Công Giáo Và Đời Sống Chính Trị Trong Các Xã Hội Cộng Sản”, pp. 270-295).

Việc thành lập cái gọi là Ủy ban Liên lạc những người Công giáo Việt Nam yêu nước, mà di chứng và những hậu quả của nó để lại còn lâu mới xóa nhòa trong ký ức của người Công giáo Việt Nam, thực ra, mới chỉ là khúc dạo đầu trong chính sách hạn chế sự phát triển của Công giáo tại Miền Bắc của nhà nước cộng sản.

Hồ Chí Minh chụp kỷ niệm với giới Công giáo miền Bắc. Nhưng chỉ ít lâu sau, chính sách cướp phá, đàn áp và giết hại người Công giáo do Hồ Chí Minh chủ xướng đã được tiến hành (Tư liệu DCCT)

Theo Stephen Denney, cuộc “cải cách ruộng đất long trời lở đất” mà cộng sản áp dụng từ năm 1953 và đỉnh cao là năm 1956, cùng với chiến dịch “Cải tạo Công Thương nghiệp” sau đó, mới là cú đánh kinh hồn gây chia rẽ giữa một bộ phận giáo dân Công giáo và các chủ chăn của họ.

Trong giai đoạn này, nhiều linh mục bị bắt giam. Các giáo dân nhiệt thành cũng chịu chung số phận với các chủ chăn của họ. Nhiều cơ sở tôn giáo bị cướp đoạt cách trắng trợn. Chủng viện bị đóng cửa. Đất đai, tài sản của Giáo hội bị tịch thu, chỉ riêng tại thành phố Hà Nội đã có khoảng gần 100 cơ sở bị nhà cầm quyền cưỡng chiếm cách trái pháp luật (x. Ibid.).

Song song với việc cưỡng chiếm tài sản hợp pháp của Giáo hội, chính quyền cộng sản, ngay từ những năm 1954 bắt đầu chiến dịch tuyên truyền đả kích Giáo hội, nhiều nhà văn, nhà thơ được huy động làm bồi bút cho chế độ và đích nhắm là đánh phá Giáo hội Công giáo.

Những câu nói như: “Vì đạo mà mất nước,”“theo đạo là theo Tây,”“theo đạo là phản động,” “đạo Công giáo vứt bỏ bàn thờ ông bà,”… là những câu nói cửa miệng của những cán bộ tuyên huấn và ngay cả những người được gọi là trí thức của chế độ đang giảng dạy tại các trường đại học.

Nhiều tác phẩm văn học công kích Giáo hội Công giáo như Bão Biển của Chu Văn hay Vỡ đê của Nguyễn Khải… được đưa vào sách giáo khoa tại các trường phổ thông trung học. Có thể nói, chế độ cộng sản đã huy động một hệ thống tuyên truyền đồ sộ, với các loại hình khác nhau, từ rỉ tai tuyên truyền tới công khai thách thức, từ sách vở báo chí, cho tới phim ảnh truyền hình, bằng những ngón nghề xảo quyệt, vẽ lên hình ảnh Giáo hội Chúa Kitô ở Việt Nam là “phản động,” cần phải loại trừ ra khỏi đời sống xã hội. Và họ đã thành công khi tạo ra được trong con mắt người dân Việt Nam nói chung một cái nhìn thiếu thiện cảm đối với đạo Công giáo.

Đối với những người Công giáo, trước những tuyên truyền của chế độ, phần đông các tín hữu tại giáo tỉnh Miền Bắc mang nơi mình thứ mặc cảm về niềm tin của mình mà di lụy của nó còn kéo dài cho tới tận hôm nay, khi nhiều người vẫn không dám tự tin nhận mình là tín hữu Công giáo ở những nơi công cộng hay khi gặp gỡ bạn bè. Có lẽ, phải còn lâu lắm, Giáo hội Công giáo Miền Bắc mới có thể xóa nhòa được những hệ quả khủng khiếp mà chính quyền cộng sản đã gây ra cho xã hội Việt nam nói chung và Giáo hội Chúa ở Miền Bắc nói riêng.

Sau khi đã thành công trong chiến dịch tuyên truyền đả phá Giáo hội, chính quyền cộng sản đã không dừng lại, Trái lại, họ tìm cách cô lập những người công giáo, biến những làng công giáo sau di cư thành những “làng lương” trong đó người công giáo chỉ còn là thiểu số. Những làng công giáo ít người di cư, nhà cầm quyền dùng chính sách “đi kinh tế mới” đẩy họ tới các tỉnh biên giới nơi không có bất cứ bóng dáng của những giáo đường. Người công giáo bị xếp vào thành phần “những công dân hạng hai” trong xã hội, những thành phần cần thiết phải bị lưu đầy.

Mặt khác, với quyền lực trong tay, chính quyền cộng sản còn tìm mọi cách “luật hóa” những sinh hoạt của Giáo hội bằng những thứ nghị định, nghị quyết hay pháp lệnh, với những thứ phép tắc mà thực chất là những cấm đoán bất kể điều đó có vi phạm tới tự do tôn giáo của người dân hay không. Có thể thấy rõ, những lãnh vực mục vụ trước đây vốn thuộc về thế mạnh của Giáo hội như giáo dục, y tế, bác ái thì bị cấm đoán. Nhiều chức vụ xã hội, người Công giáo cho tới tận hôm nay, vẫn không thể bước chân vào nếu không tuyên bố bỏ đạo, như ngành công an, ngoại giao…

Bên cạnh những thứ gọi là “văn bản luật”, chính quyền cộng sản đã ngang nhiên tìm đủ mọi cách ngăn chặn các Giám mục, linh mục tới phục vụ con chiên ngay trong địa hạt quản lý mà Giám mục giáo phận ủy thác cho họ. Thực tế, tại Giáo phận Hưng Hóa, mãi tới năm 1987, lần đầu tiên, Đức Giám mục Giáo phận Hưng Hóa mới được phép đến thăm mục vụ và ban Bí tích Thêm sức cho một giáo xứ tại tỉnh Phú Thọ, mà linh mục chính xứ khi đó đang là ủy viên hội đồng nhân dân tỉnh. Câu chuyện Đức Giám mục Vinh sơn Phạm Văn Dụ, Giám mục Giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng, phải 19 năm sau khi được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám mục Chính tòa năm 1960, trên đường chạy loạn cuộc chiến tranh biên giới Việt Trung (1979), mới được Đức Hồng y Phaolô Phạm Đình Tụng, phong chức “Giám mục chui” tại Nhà nguyện Tòa Giám mục Bắc Ninh, là minh chứng hùng hồn cho chính sách “siết chặt” mà nhà cầm quyền Hà Nội áp đặt lên Giáo hội Công giáo Miền Bắc.

Gồng gánh theo Chúa vào Nam – hay nói sát nghĩa, là chạy cộng sản để vào Nam (Hình: DCCT)

Trước những khó khăn của thời cuộc, trong bối cảnh hỗn loạn của biến cố di cư và cả sau này nữa, khi Giáo Hội miền Bắc chỉ còn là “số sót” giữa gọng kìm siết chặt bằng những chính sách triệt tiêu Giáo hội một cách có hệ thống của nhà cầm quyền Hà Nội, hình ảnh những mục tử kiên trung, những tín hữu nhiệt thành sống chết vì đạo đã tô điểm cho Giáo Hội Công Giáo (GHCG) tại Việt Nam những trang sử hào hùng bi tráng.

Một lòng trung kiên với Giáo Hội

Có thể nói, GHCG miền Bắc, ngay trong thời điểm khó khăn nhất sau năm 1954, vẫn còn đó những vị mục tử trung kiên, dám đương đầu với những thách đố của thời cuộc. Họ đã chọn ở lại để được đồng hành trong đau khổ với những tín hữu vì hoàn cảnh không thể ra đi. Hình ảnh Đức Hồng Y Trịnh Như Khuê, vì bị chính quyền cản trở, hằng đêm, một mình bước đi trên tầng thượng của tòa giám mục để cầu nguyện, đến nỗi bước chân ngài tạo nên một lối mòn trên nền gạch, đã trở thành một câu chuyện điển hình về một thời gian khó của Giáo Hội miền Bắc.

Trong hồi ký của mình, Đức Cha Phaolô Lê Đắc Trọng miêu tả vị bề trên khả kính của mình – Đức Hồng Y Trịnh Như Khuê, như một mục tử đầy khôn ngoan, nhưng cũng không kém phần quyết liệt, dứt khoát trong chọn lựa đức tin để bảo vệ Giáo hội.

Trước hết, đối với hàng linh mục, ngài công khai cấm các linh mục không được đi Nam. Những ai rời nhiệm sở phải có phép của ngài và ngài “chỉ cho phép vì một lý do chính đáng nào đó không thể an toàn ở lại miền Bắc. Những ai bỏ đi mà không có phép thì bị treo chén.” Đối với các tín hữu, ngài chăm lo đời sống đức tin của họ. Những lúc có thể, ngài rời tòa giám mục để tới với các con chiên. (x. Đức cha Phaolô Lê Đắc Trọng, Những Câu chuyện về Một thời, tr. 307).

Đối với nhà cầm quyền Cộng Sản, ngài tỏ rõ thái độ dứt khoát, trước sau như một: “bất hợp tác.” Thái độ “bất hợp tác” này được thể hiện ngay từ trong lá Thư chung ngày 9 Tháng Mười Một năm 1951, ngài ký chung với Đức Khâm sứ Tòa Thánh John Dooley và một số giám mục Việt Nam khác, trong đó có đoạn viết: “Giáo Hội Công Giáo và chủ nghĩa CS là hoàn toàn đối nghịch nhau đến nỗi vị Giáo hoàng – Đức Thánh Cha của chúng ta, đã tuyên bố rằng tuyệt đối không thể cùng một lúc vừa là CS vừa là Công Giáo và tất cả những người công giáo gia nhập đảng CS thì tức khắc (ipso facto) bị tách ly khỏi Giáo Hội. Không những bạn bị cấm gia nhập đảng CS mà bạn còn không thể cộng tác với đảng ấy và làm bất cứ điều gì giúp đưa đảng ấy nắm quyền”. Ngài đã triệt để thực hiện nội dung lá thư chung này.

Theo nhiều nhân chứng kể lại, ngài chấp nhận bị cấm đoán, sách nhiễu chỉ để không phải đi bỏ phiếu bầu cử trong các cuộc bầu cử dân chủ giả hiệu mà chính quyền cộng sản bày ra.

Biểu ngữ kêu gọi vào Nam của chính quyền VNCH

Trong “Những câu chuyện về một thời”, viết về các giáo phận thuộc Giáo tỉnh Hà Nội sau năm 1954, Đức Giám Mục Phaolô Lê Đắc Trọng còn kể lại nhiều tấm gương đức tin sáng chói, những cách ứng xử khôn khéo của các vị giám mục, linh mục trước những đòi hỏi nhiều khi thật vô lý của chính quyền Hà Nội.

Một trong những trường hợp đặc biệt là linh mục Vũ Ngọc Bích đã vào tới miền Nam, nhưng tình nguyện quay lại Bắc vì lo cho nhà thờ và giáo xứ. Ông ngồi ở hàng đầu, thứ hai, từ phải qua (Hình: GX Thái Hà)

Tại Giáo Phận Thái Bình, Đức Cha Đaminh Đinh Đức Trụ được kể là một “con người ly kỳ và mọi việc trong thời ngài cũng ly kỳ.” Sau khi được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám Mục Thái Bình, ngài đã cải trang làm người “lái lợn,” bằng xích lô, bí mật lên Hà Nội để được tấn phong giám mục. Ngài được Đức Hồng Y Trịnh Như Khuê tấn phong giám mục tại nhà nguyện tòa giám mục ngay bên phòng ngủ của ngài. Sau đó, ngài trở về Tòa Giám Mục Thái Bình, một mình ở trong ngôi nhà ba tầng cũ kỹ, không thư ký văn phòng, không người giúp việc, ăn mặc như một nông dân thực thụ, lãnh đạo giáo phận vượt qua biết bao sóng gió.

Ngày nay, về Thái Bình, đâu đâu người giáo dân cũng nhắc đến ngài với lòng biết ơn chân thành. Người ta kể cho nhau những câu chuyện về cách ứng xử khôn ngoan, nhưng cũng rất hài hước của ngài với các cấp chính quyền. Trên tòa giảng, ngài nói thẳng thắn, không kiêng nể sự gì, kể cả các cấp chính quyền. Ngài phong chức “chui” cho rất nhiều linh mục để họ làm công việc “đóng mở cửa nhà thờ” như ngài đã trả lời các cán bộ khi bị họ thẩm vấn. Trong những dịp lễ hội của nhà nước, nhà nào, cơ quan nào cũng thế, ít nhất phải treo cờ. Ngài không treo cờ bao giờ.

Nhưng có một lần, ngài cho treo cờ một cách đặc biệt. Ngài dựng một cột cờ rất cao, khoảng 20m, theo kiểu mẫu mà các xứ đạo ở Thái Bình hay Bùi Chu quen dựng vào các ngày lễ lớn. Cột cờ được dựng với hàng chục cây luồng. Trên ngọn, ngài cho cắm một lá cờ bằng hai bàn tay. Ngửa mặt lên phải nhìn kỹ mới thấy. Cán bộ nói: “Thật là quá bôi bác!” (x. Đức cha Phaolo Lê Đắc Trọng, Những câu chuyện về một thời”, tr. 311-317).

Tại hai giáo phận Bùi Chu và Phát Diệm, những giáo phận chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ biến cố di cư và bị chính quyền cộng sản “ưu ái cách đặc biệt,” nhưng cả hai Đức Giám Mục Giuse Phạm Năng Tĩnh và Phaolo Bùi Chu Tạo luôn chứng tỏ các ngài là những mục tử hết lòng hy sinh vì đoàn chiên và là chỗ dựa vững chắc cho các tín hữu bền chí trung kiên trong việc đạo.

Giáo Hội miền Bắc thật sự may mắn khi có những vị mục tử mạnh mẽ, can trường như vậy. Bên cạnh các ngài, còn có rất nhiều các linh mục, tu sĩ đã chọn lựa lập trường “cứng rắn với chế độ” mà các đấng chủ chiên đã làm gương đi bước trước. Đó là các linh mục như cố Chính Vinh, cha Thông, cha Oánh, Đức cố Hồng y Trịnh Văn Căn, Đức cha Phaolô Lê Đắc Trọng, cha Nhân Giáo phận Hà Nội, cha Hân Giáo phận Bùi Chu, cha Hy Giáo phận Thái Bình, cha Giuse Vũ Ngọc Bích, thầy Marcel Nguyễn Tấn Văn Dòng Chúa Cứu Thế… Nhiều người trong số họ đã chấp nhận tù đày và nhiều người đã phải chết rũ tù, mất xác nơi rừng thiêng nước độc.

Bên cạnh những vị mục tử can trường vì sự đạo này, sẽ thật thiếu sót nếu không kể đến hàng trăm, hàng ngàn các ông trùm, ông câu, ông biện, các giáo dân nhiệt thành đã bị nhà cầm quyền cộng sản bắt giữ, tù tội vì muốn trung thành với đức tin và vì lòng yêu mến Giáo hội. Họ là người tù không án, tự nhận mình là “thanh ngang của cây thập giá Chúa” mà Tuân Nguyễn đã kể lại cho Phùng Quán với tất cả sự kính trọng và lòng ngưỡng mộ (x. Phùng Quán, Ba phút Sự thật, tr. 175-184). Họ là gần 100 tù nhân được Kiều Duy Vĩnh cung kính gọi là “các anh hùng tử đạo” khi bị giam chung tại trại giam Cổng trời Cán Tỷ. Họ cũng có thể là Thầy Cân, là Hóa, những anh em Công giáo được nhà văn Bùi Ngọc Tấn miêu tả trong cuốn tiểu thuyết Chuyện kể năm 2000 với tình cảm quý mến dạt dào, vì tất cả “đã sống kiên cường đúng mực, tốt với bạn tù” (x. Bùi Ngọc Tấn, Chuyện kể năm 2000, tr.60).

Ngày nay, thật khó có thể hình dung được tại sao trong cảnh tù tội, những tín hữu Công giáo vẫn có thể kiên trung giữ đức tin, gây được nhiều thiện cảm với những anh chị em không Công giáo. Trong đức tin, họ là những hạt giống mà Chúa đã gieo vào lòng đất, chấp nhận chết đi để mang lại một mùa gặt bội thu những gánh lúa vàng.

Có thể nói, GHCG miền Bắc không bị “cộng sản hóa,” không trở thành “giáo hội của nhà nước” như dự định ban đầu của nhà cầm quyền cộng sản muốn biến Giáo hội thành công cụ phục vụ cho chế độ, phần lớn là do, vào những thời điểm gian khó nhất, Giáo hội Miền Bắc đã được Chúa ban cho những vị mục tử nhân lành, những tín hữu nhiệt thành dám liều mình vì đức tin.

Chính sự kiên trung của họ đã bảo vệ Giáo Hội, đã tạo một nền móng kiên cố mà không thế lực nào có thể phá đổ được. Chính họ chứ không ai khác, qua cuộc sống và những kinh nghiệm khổ đau của mình, đã tiếp thêm sức mạnh, giúp các giáo hữu Miền Bắc tìm ra cách chung sống với những người cộng sản, ít bị vẩn đục, tàn phai.

Những người Bắc di cư vào Nam, sau một năm ổn định làm ăn sinh sống, chụp ảnh và gửi về quê cho bà con (Tư liệu Phạm Công Luận)

Vậy là bảy mươi năm đã qua đi. Bảy mươi năm, một chặng đường đầy gian khổ của Giáo Hội miền Bắc. Đó là những năm tháng của những ân huệ, những trăn trở, những hy vọng và cả những thất vọng. Đó là một chặng đường của một Giáo Hội đi trong đau khổ, giữa những bách hại, những thử thách, nhưng vẫn trung kiên trong sự quan phòng đầy yêu thương của Chúa.

Đức Thánh Cha Bênêđíchtô 16, trong Tự sắc Porta Fidei, nhân dịp Năm Đức Tin (2012-2013) đã viết: “Một điều quan trọng trong Năm Đức Tin là điểm lại lịch sử Đức Tin của chúng ta, được ghi dấu bằng mầu nhiệm lạ lùng về sự đan xen giữa thánh thiện và tội lỗi. Lịch sử thánh thiện cho thấy sự đóng góp lớn lao của những người, nam và nữ, cho sự tăng trưởng và phát triển cộng đoàn bằng chứng từ cuộc sống của mình, còn lịch sử tội lỗi thúc đẩy mỗi người phải thành tâm và thường xuyên hoán cải để cảm nghiệm lòng thương xót của Chúa Cha, Đấng đang đến gặp gỡ mọi người” (số 13).

Lịch sử bảy mươi năm đã qua của Giáo Hội miền Bắc là một lịch sử như vậy. Đó là lịch sử của sự đan xen giữa thánh thiện và tội lỗi, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa sự hiệp nhất và phân rẽ, giữa sự phản bội và trung tín… Dù lịch sử ấy thế nào, thì nó vẫn có một giá trị tất yếu giúp Giáo Hội bước vào tương lai.

Điều quan trọng là nhận ra những bóng tối, những phân hóa, “cùng nhau thành tâm và thường xuyên hoán cải để cảm nghiệm lòng thương xót” và sự trung thành của Chúa với những người Chúa đã chọn cho một giai đoạn của lịch sử của dân tộc.

Giáo Hội Công Giáo Việt Nam sẽ tiếp tục bước thế nào trong những ngày tháng sắp tới để ‘Sống Phúc âm giữa lòng Dân tộc?”  Đó sẽ là câu hỏi mà GHCG Việt Nam phải trả lời để Giáo Hội thực sự trở thành Giáo Hội Chúa Kitô, của người nghèo và cho người nghèo.

Lm. Gioan Nguyễn Ngọc Nam Phong
Nguồn: https://saigonnhonews.com ngày 20/7/2024

Be the first to comment

Leave a Reply

Your email address will not be published.


*