Tôi là người Việt Nam. Chào đời năm 1930, phục vụ quân lực Việt Nam Cộng Hòa từ ngày 12/5/1954 đến Giờ Thứ 25 ngày 30/4/1975. Sau ngày tang thương này, lãnh đạo Việt Cộng đẩy tôi vào trại tập trung trên đất Nam ngày 14/6/1975, chuyển đến trại tập trung trên đất Bắc từ ngày 16/6/1976, ra khỏi trại tập trung ngày 9/9/1987 về đến nhà ở Sài Gòn chiều ngày 12/9/1987, rời khỏi Việt Nam tháng 4/1991 tị nạn cộng sản trong đợt H05, và đang sống tại Hoa Kỳ.
Ước mơ của tôi là được trở về Việt Nam sống trên quê hương cội nguồn của mình dưới chế độ dân chủ tự do. Vì vậy mà ước mơ đó luôn thúc đẩy tôi tổng hợp các tin tức và chọn lọc vào nội dung, giúp Các Anh và những thành phần yêu chuộng dân chủ tự do có nét nhìn rộng hơn và rõ hơn, về những sự kiện trên thế giới liên quan trực tiếp lẫn gián tiếp đến mục tiêu ngăn chận tham vọng thống trị thế giới của Trung Cộng, mà Hoa Kỳ và một số quốc gia phát triển đang thực hiện. Và khi lãnh đạo Việt Cộng tự suy yếu, hoặc Trung Cộng bị suy yếu thì lãnh đạo Việt Cộng không còn chỗ dựa, đó là cơ hội cho Các Anh và toàn dân đứng lên giành lại Quyền Làm Người của mình, nối tiếp dòng lịch sử oai hùng của dân tộc từ ngàn năm trước.
Là Người Lính trong Quân Đội gắn liền với hai chữ “Nhân Dân”, phải hiểu là Các Anh có trách nhiệm bảo vệ Nhân Dân, cũng là bảo vệ Tổ Quốc, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền cũng chỉ một giai đoạn của lịch sử. Ngay cả Cộng Sản Quốc Tế là Liên Xô như đang chờ nắm quyền thống trị thế giới vô sản, đã phải sụp đổ từ đầu năm 1991 vì cộng sản là chế độ độc tài và độc ác. Liên Xô sụp đổ, kéo theo nhóm quốc gia cộng sản vùng Đông Châu Âu cùng sụp đổ.
Chưa hết, Các Anh hãy nhớ lại vào nửa thế kỷ trước đó, phát xít Đức bắt đầu chiến tranh xâm lăng Ba Lan từ tháng 10/1939 và chiếm gần hết Châu Âu, trong khi phát xít Nhật bắt đầu chiến tranh với Hoa Kỳ từ tháng 12/1941 và chiếm gần hết các quốc gia vùng Đông Nam Châu Á, nhưng đến nữa cuối năm 1945 thì cả Đức lẫn Nhật phải gục ngã -vì họ là chế độ độc tài và độc ác không thể tồn tại dài lâu- trước thế giới tự do do Hoa Kỳ dẫn đầu. Và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.
Xin nói thêm cho rõ. Với những bài văn bài thơ của các tác giả ở trong nước, tôi xin sử dụng chữ viết truyền thống thay thế chữ viết thời Việt Cộng. Với những nhóm chữ tôi không hiểu, thì tôi chịu thua.
Với lá Thư này, tôi tóm lược bài viết dài 15 trang với tựa “Những Sự Thật Cần Phải Biết” của tác giả Đặng Chí Hùng (Danlambao), tự nhận là bản thân sinh ra và lớn lên giữa xã hội toàn trị của đảng cộng sản. Những năm sau năm 1975, đã nhận ra sự thật hoàn toàn trái ngược với những gì mà nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam giáo dục trong học đường và tuyên truyền trong xã hội. Sự Thật mà tác giả trình bày trong nội dung, là Sự Thật của Việt Nam Cộng Hòa (Nam Việt Nam), Sự Thật của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt Nam) + Sự Thật của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (toàn cõi Việt Nam).
Tôi xin phép tác giả, vì bài quá dài nên tôi phải tóm lược đến 3 lần để rút ngắn lại theo số trang của lá Thư, tôi có thêm vài nhóm chữ và hình cho rõ nghĩa, nhưng vẫn giữ nội dung của bài viết. Xin cám ơn.
Đôi lời của tác giả trước khi vào bài. Thưa các bạn, tôi là một người trẻ tuổi, chưa một lần biết đến ngôi trường của Việt Nam Cộng Hòa, cũng chưa từng được sống dưới chế độ tự do đó. Tuy nhiên, qua nhiều sách báo, tài liệu, và nhân chứng sống, cộng với những gì mắt thấy tai nghe, và sự suy nghĩ của mình, tôi nhận thấy một điều: “Đó là một chế độ khác hẳn với những lời tuyên truyền của đảng cộng sản Việt Nam”.
Và tác giả vào bài với một câu tự hỏi: “Nếu Việt Nam Cộng Hòa là một chế độ thối nát như đảng đã tuyên truyền, thì tại sao hằng mấy triệu người Miền Nam chạy ra hải ngoại vẫn nuối tiếc chế độ đó? Và hằng triệu người miền Bắc sau năm 1975 vào sống chung với những triệu người miền Nam, đều khâm phục người Miền Nam rất chân thành và nhân nghĩa? Vậy, Việt Nam Cộng Hòa phải là chế độ phục vụ người dân mới thu hút được lòng người”.
Đó cũng là lý do tôi viết bài này, để chứng minh những sự thật về một nhà nước tự do dân chủ Việt Nam Cộng Hòa, đã bị chính sách tuyên truyền dối trá của đảng cộng sản Việt Nam chúng ta mạt sát, trong mục đích cuốn người dân xã hội chủ nghĩa vào cuộc chiến xâm lược Miền Nam cho cộng sản Nga cộng sản Tàu. Và tôi xin nhắn gởi:
Đến những người yêu mến Việt Nam Cộng Hòa, dù đã từng sống hay chỉ biết qua sách vở, lời khẳng định của tôi là các bạn yêu mến không hề nhầm lẫn.
Đến những người bị lừa dối hy sinh cho đảng cộng sản Việt Nam -nhất là thế hệ cha ông của tôi- là lời chân tình để giúp các bạn thật sự nhận ra bản chất của đảng cộng sản Việt Nam, và ông hồ chí minh đã lừa dối họ bao lâu nay.
Đến những người còn vì miếng ăn mà tiếp tục dối trá với dân tộc, thì hãy tỉnh lại đi vì sự thật đã phơi bày tất cả rồi. Đừng tự lừa dối mình và lừa dối nhân dân nữa, hãy để cho lương tâm con người được sống với sự thật.
Việt Nam Cộng Hòa với chế độ tự do, Việt Nam Cộng Sản chúng ta với chế độ độc tài.
Trong bài “Sự thật về đại thắng mùa xuân 1975”, tôi đã chứng minh thất bại của Việt Nam Cộng Hòa không hèn kém như cộng sản chúng ta bịa đặt, mà họ bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi. Nhưng cũng nên biết rằng, vào thời gian ấy, Hoa Kỳ vừa tự cứu mình về uy tín chính trị, vừa tránh lún sâu vào chiến tranh Việt Nam. Và tôi khẳng định là Hoa Kỳ không hề xâm lăng Việt Nam, mà đảng cộng sản Việt Nam tuyên truyền để lừa bịp lòng yêu nước của nhân dân ta. Tại sao tôi khẳng định điều này:
Dù bất cứ ai cũng có thể thấy quân đội Hoa Kỳ đến Việt Nam Cộng Hòa, họ không chiếm một tấc đất hay một hòn đảo của miền Nam, mà trái lại họ giúp xây dựng miền Nam nói chung, và Sài Gòn nói riêng. Một Sài Gòn tự do và phồn vinh mà trước năm 1975 Á Châu tôn vinh là Hòn Ngọc Viễn Đông, ngay cả Singapore hay Hong Kong lúc ấy còn đứng sau lưng Sài Gòn.
Năm 1961, khi Việt Nam Cộng Hòa ký Hiệp Ước quân sự với Hoa Kỳ, thì Hoa Kỳ chỉ đưa vào miền Nam các Cố Vấn và một ít quân để bảo vệ các cơ sở của họ. Nhiệm vụ chính là giúp Việt Nam Cộng Hòa phát triển xã hội. Năm 1965, Hoa Kỳ đưa quân vào miền Nam vì sự kiện vịnh Bắc Bộ năm 1964 giữa Hoa Kỳ với miền Bắc chúng ta, để giúp Việt Nam Cộng Hòa chống lại cuộc chiến mà chúng ta bắt đầu từ năm 1960, và ngày càng leo thang trên lãnh thổ của họ.
Vậy là, chính chúng ta xâm lược Việt Nam Cộng Hòa chớ đâu phải Hoa Kỳ, vì Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chúng ta là một quốc gia, quân của quốc gia chúng ta tấn công họ là xâm lược chớ gì nữa. Rồi cộng sản chúng ta vu khống Hoa Kỳ là xâm lược để kích động chiến tranh theo lệnh cộng sản Nga, cộng sản Tàu.
Trong khi đó Trung Cộng đã chiếm quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa hồi năm 1958 chỉ bằng một tuyên bố của Quốc Hội của họ, ngay sau đó là Công Hàm của Chủ Tịch hồ chí minh, và Thủ Tướng Phạm Văn Đồng công nhận sự chiếm đóng đó của Trung Cộng. Sau năm 1975, lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam lại giao hằng trăm cây số biên giới ở Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, đến Vịnh Bắc Bộ, rồi Boxit Tây Nguyên cho Trung Cộng.
Vậy là, kẻ xâm lược Việt Nam chính là Trung Cộng mà họ không tốn một viên đạn, cũng không mất một mạng người, họ chỉ trao cho lãnh đạo Việt Nam ôm chặt “16 chữ vàng và 4 tốt “, và lúc nào nhóm lãnh đạo chúng ta cũng “tri ân sâu nặng” họ.
Trong bộ môn lịch sử chương trình lớp 12 của chúng ta, có bài học nặng về tuyên truyền: “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” thành lập ngày 20/12/1960 với mục tiêu “đấu tranh chống quân xâm lược Mỹ và chánh quyền tay sai, nhằm giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước”.
Hãy nghe người Liên Xô nói về việc Hoa Kỳ đưa quân vào Việt Nam, để thấy người anh cả của đảng cộng sản Việt Nam biết rõ Hoa Kỳ không phải vào Việt Nam “xâm lược” như chính sách tuyên truyền của đảng cộng sản Việt Nam. Tài liệu của Liên Xô đăng trong quyển sách “Một Bước Đi Lớn” -do nhóm tác giả đã từng hoạt động trong tổ chức tình báo KGB- và nhà xuất bản quân đội Liên Bang Nga ấn hành năm 1999, nói về hoạt động tình báo của Liên Xô, ở trang 128:
“Mỹ không xâm lược Việt Nam như Pháp thực dân làm vào nửa cuối thế kỷ 19, mà Mỹ muốn Việt Nam trở thành một trong những tiền đồn bảo vệ chủ nghĩa tư bản ở Á Châu, ngăn chận Bắc Triều Tiên và Trung Hoa…”
Thật ra Trung Cộng muốn Hoa Kỳ đổ quân vào Việt Nam để tạo cái cớ Hoa Kỳ xâm lược Việt Nam, từ đó họ ra lệnh cho ông hồ và đảng cộng sản Việt Nam thực hiện chiến tranh. Trong quyển sách “Mao: The Unknown Story” của tác giả Jung Chang và Jon Halliday phát hành năm 2005, trang 470 có đoạn: “Có một nơi gần Trung Quốc, nơi đó có người Hoa Kỳ, và đó là Việt Nam Cộng Hòa. Cuối năm 1963, quốc gia này có khoảng 15.000 cố vấn quân sự Hoa Kỳ.
Thêm một đồng minh của Việt Nam Cộng Sản chúng ta khẳng định Hoa Kỳ không hề xâm lược Việt Nam, như cách mà chúng ta tuyên truyền lừa bịp dối trá. Trong cuốn sách có tựa “Đối Nghịch” của tác giả J. Leroy xuất bản tại Pháp năm 2000, ông là đảng viên đảng cộng sản Pháp. Nội dung phân tách và dẫn chứng về chiến tranh Việt Nam, cho thấy sự đối nghịch cao điểm về ý thức hệ. Trang 187 có đoạn:
“Một cuộc chiến tại Việt Nam là điều mà Hoa Kỳ không mong muốn, họ đến với Việt Nam khác hẳn chúng ta hồi thế kỷ trước. Nhưng họ phải đổ quân vào, vì họ không muốn Liên Xô bành trướng tư tưởng của Mác – Lê Nin…”
Tác giả J. Leroy rất trung thực khi đánh giá Hoa Kỳ không xâm lược Việt Nam, mà họ chỉ vào Việt Nam trong tình thế bắt buộc chống lại sự bành trướng tư tưởng đỏ của Liên Xô.
Với 3 tác giả người Liên Xô, người Trung Cộng, và người Pháp nêu trên, đều nhận định Hoa Kỳ không phải là kẻ xâm lược Việt Nam Cộng Hòa, thì quân đội và viên chức hành chánh của Việt Nam Cộng Hòa đâu có phải là “ngụy quân, ngụy quyền”, mà chúng ta gọi họ như vậy. Chỉ vì cộng sản chúng ta nhồi nhét vào đầu người dân, để cuốn họ vào chiến tranh xâm lược Việt Nam Cộng Hòa. Trong khi chế độ dân chủ non trẻ của miền Nam giáo dục những thế hệ với tư tưởng và ý niệm tốt đẹp về xã hội Miền Nam.
Từ năm 1960 đến 1975, tổ chức của Miền Nam rất chuẩn mực của một đất nước văn minh với Tổng Thống và Lưỡng Viện Quốc Hội đều do dân chọn bầu đúng nghĩa. Tự do báo chí thật sự với hơn 50 tờ báo tư nhân các loại tại Sài Gòn. Tính đến năm 1975, Việt Nam Cộng Hòa đã thiết lập ngoại giao với 87 quốc gia trên thế giới, và 6 quốc gia ở cấp bán chánh thức.
Miền Nam từ trước đến năm 1975, có hàng chục đảng phái, tổ chức và hoạt động chính trị bình thường. Trong khi Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, rồi đến Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chúng ta, trong suốt mấy chục năm qua chỉ có một đảng duy nhất là đảng cộng sản. Làm sao chúng ta dám nói là chế độ tự do.
Một góc nhìn. Miền Nam tôn trọng tự do đến mức những đồng chí của chúng ta sống với họ, và biểu tình chống họ ngay trên lãnh thổ của họ, mà họ không bắt bớ gì cả. Điều này trái ngược hẳn với chúng ta, khi nhân dân biểu tình chống Trung Cộng xâm lược thì Công An chúng ta đàn áp và bắt giam lập tức.
Một góc nhìn khác. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn với những bản nhạc phản chiến vẫn được phép lưu truyền tại miền Nam. Ngay cả bài hát “Màu Tím Hoa Sim” của tác giả Hữu Loan -một nhà thơ nổi tiếng của Miền Bắc chúng ta- vẫn được ca hát tại miền Nam như bất cứ bản nhạc nào của miền Nam.
Trong khi đó tại miền Bắc chúng ta đến 1975, và sau năm 1975 trên cả nước, những bản nhạc với nội dung có chút lãng mạn là bị đảng cộng sản chúng ta triệt để cấm đoán, vì lo ngại nó sẽ hủy hoại chính sách tuyên truyền của chúng ta về hận thù Miền Nam.
Đến 42 nạn nhân là nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ, và trí thức của miền Bắc chúng ta, bị chúng ta trừng phạt trong vụ án “Nhân Văn” và “Giai Phẩm” năm 1955-1956. Hai tạp chí này đều do Phan Khôi làm chủ nhiệm, và Trần Duy là thư ký tòa soạn.
Trong cuốn sách nghiên cứu khá sâu sắc về quốc tế cộng sản “Chủ Thuyết Của Chúng Ta” của tác giả A. Schenalder -một đảng viên đảng cộng sản Cộng Hòa Dân Chủ Đức- ấn hành tại Đông Đức năm 1981, trang 189 có đoạn: “Nếu theo tự do như Việt Nam Cộng Hòa, thì Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa sẽ bị đánh mất chủ thuyết của mình…”
Nói như Bà Dương Thu Hương, một nữ văn sĩ miền Bắc chúng ta theo đoàn quân xâm lược vào Sài Gòn hồi cuối tháng 4/1975, thì: “Chế độ tại Miền Nam mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua một chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải…”
Và chính ông Võ Văn Kiệt -cựu Thủ Tướng Việt Nam sau năm 1975- đã thốt lên rằng: “Ngày 30/4/1975 là ngày mà Việt Nam Cộng Hòa chánh thức mất đi trên danh nghĩa, nhưng vẫn tồn tại trong lòng mỗi người yêu dân chủ, tự do. “Đó là ngày của triệu người buồn.”
Kinh tế Việt Nam Cộng Hòa hơn hẳn kinh tế Việt Nam Cộng Sản chúng ta.
Việt Nam Cộng Hòa giai đoạn 1954-1963 được viện trợ từ Hoa Kỳ, đã nhanh chóng khôi phục kinh tế, trong đó có chính sách “Cải Cách Điền Địa”. Giai đoạn 1963-1975, Miền Nam lại thực hiện chính sách “Người Cày Có Ruộng” mang lại nỗi vui mừng cho người dân nông thôn, vì họ được làm chủ đất thật sự.
Trong khi Việt Nam Cộng Sản chúng ta thực hiện chính sách “Cải Cách Ruộng Đất” với Luật ban hành ngày 19/12/1953, lại là thảm họa đối với 172.008 người dân tại 3.341 xã thuộc 15 tỉnh phía bắc miền Trung, và toàn miền Bắc từ 1953 đến 1956. Theo luật, người dân tại mỗi xã, bị xếp vào 5 thành phần: Địa Chủ. Phú Nông. Trung Nông. Bần Nông. Cố Nông. Và thành phần địa chủ bị giết chết theo tỷ lệ 5% người dân tại mỗi xã. Nếu thành phần Địa Chủ không đủ 5%, thì đôn thành phần Phú Nông lên cho đủ 5% để giết.
Trên báo Sự Thật số 134 ra ngày 1/6/1950, đăng bức thư ông Hồ gửi thiếu nhi toàn quốc, có đoạn: “Sống ở các nước tư bản, cha mẹ là người lao động bị bóc lột, thì trẻ con cũng bị bóc lột, phải chịu cực khổ”. Điều này cho thấy đảng cộng sản bịa đặt rồi tuyên truyền, vì sự thật là trong xã hội miền Nam, người dân chẳng những không bị bóc lột, mà trái lại mọi người lớn bé đều được chánh phủ họ chăm sóc.
Tài liệu trên trang Wikipedia, cho thấy nền kinh tế Việt Nam Cộng Hòa như sau: “Việt Nam Cộng Hòa đã thực hiện chiến lược kỹ nghệ hóa để giảm bớt hàng nhập cảng. Cơ quan thuế vụ đã bảo vệ ngành kỹ nghệ nhẹ. Nền kỹ nghệ Miền Nam bắt đầu với những nhà máy:
– Nhà máy giấy Cogido An Hảo (1961) ở Biên Hòa, cung ứng được 30-40% nhu cầu tiêu thụ giấy.
– Hai xưởng dệt Vinatexco và Vimytex với sản suất 13.200.000 thước vải mỗi năm.
– Nhà máy thủy tinh Khánh Hội năng suất 15.000 tấn/năm.
– Hai nhà máy xi măng -ở Hà Tiên và Thủ Đức- với năng suất 540.000 tấn mỗi năm.
– Đập thủy điện Đa Nhim, hoàn thành năm 1961.
Thêm một thế mạnh đặc biệt của Việt Nam Cộng Hòa là thành phần trí thức được đào tạo kỹ lưỡng, và họ làm việc tận tâm. Về mặt này, miền Nam vượt xa các lân bang cùng thời như Thailand, Malaysia, Indonesia, Singapore. Theo thống kê cho thấy, 3 trong số 4 Kỹ Sư trong toàn vùng khi đó, là công dân Việt Nam Cộng Hòa. Họ quản trị và điều hành những nhà máy bên trên, và:
– Khu Kỹ Nghệ Biên Hòa. Khu Kỹ Nghệ Phong Dinh. Trung tâm nguyên tử năng Đà Lạt. Tổng Cục Dầu Hỏa Sài Gòn.
(Trung tâm nguyên tử năng Đà Lạt)
Năm 1973, họ bắt đầu với kỹ nghệ dầu hỏa. Sau cuộc đấu thầu khai thác dầu hỏa ngoài khơi thềm lục địa, miền Nam cấp giấy phép cho sáu tổ hợp công ty dầu lửa khai thác 13 địa điểm trong một khu vực 82.000 cây số vuông, khoảng 16% của thềm lục địa. Tháng 10/1974, hãng Mobil khoan mỏ Bạch Hổ tìm được dầu dưới độ sâu gần 3 cây số, và ứớc tính vào cuối 1975 sẽ có ít nhất 20 giàn khoan.
Sau năm 1975, các mỏ dầu này do Liên Doanh Vietsopetro của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa chúng ta quản trị và khai thác.
Từ năm 1973, Việt Nam Cộng Hòa sử dụng 11 dàn máy tính IBM 360/40 tại Bộ Quốc Phòng và Bộ Giáo Dục, máy IBM 360/50 tại Bộ Tổng Tham Mưu. Lúc đó, trong vùng Đông Nam Á chỉ có Singapore mới có vỏn vẹn 1 máy IBM 360/40.
(Máy tính IBM)
Hãy xem tác giả Hà Cẩn -Viện Văn Học Trung Cộng- trong quyển sách “Mao Chủ Tịch Của Tôi” xuất bản năm 1997 và tái bản năm 2000, trang 222 có đoạn: “Miền Nam Việt Nam có nền kinh tế phát triển, đó là điều bất lợi cho chúng ta…”
Trong cuốn sách tạm dịch ra tiếng Việt là “Liên Xô – Trung Quốc -Việt Nam, Vấn Đề Chưa Được Biết”, của tác giả người Nga, xuất bản năm 1995. Tác giả Ruslan Kobachenko -đảng viên đảng cộng sản Liên Xô- cũng là nhà giáo kiêm nhà nghiên cứu lịch sử Châu Á, từng giảng dạy tại đại học Minsk-Nga, trang 197 có đoạn như sau:
“So với Miền Nam, thì đồng chí Miền Bắc của chúng ta thua kém nhiều về kinh tế. Chúng ta đã nhận ra điều này như là một yếu điểm, cần phải được lãnh đạo Miền Bắc sửa chữa, mà đứng đầu là chủ tịch hồ chí minh. Nhưng thật khó mà làm điều này, vì kinh tế Miền Bắc rất lạc hậu và rặp theo mô hình của Trung Quốc”.
Theo sách “Lịch sử Kinh tế Việt Nam” 1945-2000, viết về giai đoạn 1955-1975, xuất bản tại Hà Nội năm 2004 thì:“Cho đến 1973, nông dân miền Bắc sản xuất gần 4 triệu tấn gạo, chưa đủ dùng cho nhân dân, vẫn phải nhận viện trợ bột mì và bo-bo từ Trung Quốc và Liên Xô. Miền Bắc chúng ta đến đầu 1972, điện thoại chỉ có trong cơ quan nhà nước, toàn miền Bắc chỉ có 2 đài phát thanh với hệ thống “loa phường” dày đặc, và chưa biết truyền hình là gì cả.”
Về thu nhập bình quân. Theo tài liệu kinh tế thì GDP” bình quân đầu người ở miền Nam vào thời trước 1975 là 190 mỹ kim. Thu nhập này tuy chưa cao mấy thời đó, nhưng cao hơn các nước Thái Lan, Bangladesh, Ấn Độ, và Pakistan.
Nhìn lại chúng ta 36 năm sau năm 1975 (năm 2011), GDP bình quân đầu người của Việt Nam xã hội chủ nghĩa là khoảng 1.100 mỹ kim, nhưng thua xa Thái Lan (khoảng 4000 mỹ kim). Từ sau khi “thống nhất đất nước”, thì những gì mà Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa chúng ta đang có, đều là lạc hậu.
Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa dạy làm người, giáo dục Việt Nam Cộng Sản dạy theo đảng.
Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa áp dụng triết lý giáo dục “nhân bản – dân tộc – khai phóng”. Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa nhấn mạnh quyền tự do giáo dục: “Những học sinh sinh viên có khả năng theo đuổi học vấn mà không có phương tiện, sẽ được chánh phủ nâng đỡ để tiếp tục hết chương trình. Học sinh học trường công, miễn phí hoàn toàn”.
Theo tài liệu ghi trong quyển sách “Giáo Dục Việt Nam” do nhà xuất bản Giáo Dục ấn hành năm 2001, nói về giáo dục của miền Nam trước năm 1975, thì năm học 1973-1974, Việt Nam Cộng Hòa với số học sinh và sinh viên chiếm 20% dân số:
– 3.101.560 học sinh tiểu học.
– 1.091.779 học sinh trung học.
– 101.454 sinh viên đại học (chưa tính số sinh viên tại Học Viện Quốc Gia Hành Chánh để phục vụ trong ngành hành chánh).
Năm 1958, thời Bộ Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục Trần Hữu Thế, Việt Nam Cộng Hòa tổ chức Đại Hội Giáo Dục Quốc Gia lần I tại Sài Gòn, với sự tham dự của nhiều phụ huynh học sinh, thân hào nhân sĩ, học giả, đại diện của quân đội, chánh quyền, các tổ chức dân sự, đại diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu học đến đại học, từ phổ thông đến kỹ thuật. Với triết lý giáo dục “nhân bản” (humanistic), “dân tộc” (nationalistic), và “khai phóng” được chánh thức hóa trong Đại Hội qua bài giảng của ông Bộ Trưởng:
“Giáo Dục Việt Nam là giáo dục Nhân Bản. Chủ trương “con người làm gốc”, cuộc sống của con người làm căn bản, con người là một cứu cánh chớ không phải phương tiện hay công cụ phục vụ cho bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác. Triết lý nhân bản, chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá con người, và không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc… Với triết lý nhân bản, mọi người có giá trị như nhau, và đều có quyền được hưởng những cơ hội như nhau về giáo dục.
Giáo Dục Việt Nam là giáo dục Dân Tộc. Giáo dục tôn trọng giá trị truyền thống của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia đình, nghề nghiệp, và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn và phát huy được những tinh hoa, những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc. Dân tộc tính trong văn hóa, cần phải được các thế hệ biết đến, bảo tồn và phát huy, để không bị mất đi hay tan biến trong những nền văn hóa khác.
Giáo Dục Việt Nam là giáo dục Khai Phóng. Truyền thống dân tộc không nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại, giáo dục phải mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội hòa nhập vào văn minh thế giới.”
Trong khi đó, trên lãnh thổ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chúng ta, học sinh bị nhồi nhét tư tưởng Mỹ “xâm lược” mà thực chất không phải vậy. “Bác Hồ yêu nước, cả đời vì nước”, mà thực tế ngược lại, với bằng chứng sống “yêu nước là phải yêu đảng cộng sản“.
Những bài thơ của ông Tố Hữu với những câu như “Giết, giết nữa…” lại được hệ thống trường học trên đất Bắc gieo vào đầu con trẻ ý tưởng giết người từ tuổi ấu thơ.
Tại Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chúng ta ngày nay, người dân mới nhận thấy tuyên truyền của đảng cộng sản chúng ta là những chuyện không thật, nhằm đưa đến một ý thức lệch lạc để người dân làm theo ý đảng.
Giáo Sư Đại Học Yale Hoa Kỳ -Arthur W. Galston- sang thăm Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chúng ta từ ngày 7 đến ngày 28/6/1975, sau đó có bản tường trình của Giáo Sư đăng trên tạp chí Science ngày 29/8/1975, với chủ đề mà các nhà lãnh đạo miền Bắc bận tâm là vấn đề thống nhất hai miền Nam Bắc, như sau:
“Việc thống nhất trong lãnh vực khoa học và giáo dục có lẽ sẽ có nhiều khó khăn, vì hai miền đã phát triển theo hai chiều hướng ngược nhau. Nhưng cho dù khó khăn, các nhà lãnh đạo miền Bắc đã công khai bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với nhiều đặc điểm của nền khoa học và giáo dục ở miền Nam. Vì vậy, họ đang thảo luận sôi nổi về ý tưởng này khi thống nhất hai miền Nam Bắc”.
Theo ông Galston, các nhà lãnh đạo miền Bắc, được nhắc đến trong bài là Nguyễn Văn Hiệu -Viện Trưởng Viện Khoa Học Việt Nam- và Phạm Văn Đồng -Thủ Tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa- đặc biệt quan tâm đến hệ thống giáo dục, và nhấn mạnh đến các ngành kỹ thuật và điện tử, cùng hệ thống các trường đại học cộng đồng hệ hai năm đã được thiết lập ở miền Nam.
Cả đảng cộng sản chúng ta cũng phải thừa nhận nền giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa chính là cái gương cho chúng ta tự soi. Nhưng, với bản chất của đảng cộng sản, nói như vậy nhưng không làm như vậy, vì chúng ta là chế độ độc tài.
Đây là lời chứng của ông Mai Thái Lĩnh, cựu sinh viên Viện Đại Học Đà Lạt, nguyên Phó Chủ Tịch Hội Đồng Nhân Dân Thành phố Đà Lạt dưới thời Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chúng ta:
“Tôi là con của một cán bộ Việt Minh, tham gia cách mạng tháng tám tại Lâm Đồng, sau đó tập kết ra miền Bắc. Chế độ Việt Nam Cộng Hòa lúc đó biết lý lịch của tôi, nhưng vẫn không phân biệt đối xử, cho nên tôi vẫn học hành đến nơi đến chốn. Tính chất tốt đẹp của nền giáo dục của miền Nam là điều tôi thừa nhận, vì vậy suốt 14 năm phục vụ trong ngành giáo dục “xã hội chủ nghĩa” (1975-1989), tôi bị người ta gắn cho đủ thứ nhãn hiệu, chụp cho nhiều thứ mũ, chỉ vì tôi nêu rõ những ưu điểm của nền giáo dục cũ của Miền Nam cần phải học hỏi. Chính là do thừa hưởng nền giáo dục đó của miền Nam mà tôi có được tính độc lập trong tư duy, không bao giờ chịu nô lệ về tư tưởng...”
Đến nhà phê bình văn học Thụy Khuê: (miền Bắc) “Trong thời gian chia đôi đất nước, mặc dù với những tệ nạn của xã hội chiến tranh, miền Nam vẫn có một hệ thống giáo dục đứng đắn. Trong chương trình giáo khoa, các giai đoạn lịch sử và văn học đều được giảng dạy đầy đủ, không thiên hướng. Ở bậc trung học, học sinh gặt hái những kiến thức đại cương về sử, về văn, và tới trình độ tú tài, thu thập những khái niệm đầu tiên về triết học. Lên đại học, sinh viên văn khoa có dịp học hỏi và đào sâu thêm về những trào lưu tư tưởng Đông Tây, đồng thời đọc và hiểu được văn học ngoại quốc qua một nền dịch thuật đáng tin cậy.”
Nhạc sĩ Tô Hải: “Trong lịch sử Việt Nam, chưa bao giờ trên đất nước này lại có một xã hội giáo dục cho công dân đừng sống trung thực, mà phải biết nói dối. Nói dối tỉnh bơ, nói dối không biết ngượng, nói dối càng giỏi càng đạt nhiều thành tích. Cuộc Nói Dối Vĩ Đại nhất là cuộc chiến tranh giải phóng Miền Nam khỏi tay đế quốc Mỹ Xâm Lược!
Nhà Giáo Thái Hạo: “Nhà giáo chúng tôi không được đứng thẳng để làm người, làm sao dạy học sinh làm người lương thiện được.. Bởi, giáo viên phải ngoan ngoãn im lặng làm theo đảng, có ai đó trung thực thẳng thắn thì bị hành hạ, bị đuổi ra khỏi trường. Muốn yên thân thì phải hèn…”
Ông Nguyễn Khắc Mai, một thời là Vụ Trưởng Vụ Nghiên Cứu/ Ban Dân Vận trung ương: “Hiện nay, tuy người ta không dám nói “chuyên chính vô sản” công khai, nhưng trong lòng họ vẫn cho rằng cái chính quyền này, thể chế chính trị này là “chuyên chính vô sản”. Chuyên chính vô sản nghĩa là gì? Nghĩa là một triết lý như Lê Nin khẳng định: Nó bất chấp luật pháp. Nó không cần luật pháp. Nó vượt qua luật pháp. Đấy là triết lý chuyên chính vô sản của Lê Nin”…..
Nhà văn Nguyên Ngọc: “Căn bệnh giả dối là nặng nhất, chí tử nhất, và toàn diện nhất”, đang hoành hành xã hội Việt Nam, khiến “người ta thật sự không còn tin vào bất cứ điều gì nữa. Lãnh đạo đảng với lãnh đạo nhà nước, lại càng giả dối hơn hết”.
Y Tế Việt Nam Cộng Hòa hơn hẳn Y Tế Việt Nam Cộng Sản chúng ta.
Thêm một sự thật mà chúng ta phải chấp nhận, là ngành Y Tế của Việt Nam Cộng Hòa cho đến năm 1975 vẫn hơn hẳn ngành Yé Tế của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chúng ta, dù sau mấy chục năm thống nhất đất nước. Trong khu vực Đông Nam Á, miền Nam là quốc gia nhiều bệnh viện với trang bị máy móc dụng cụ tối tân. Và đặc biệt là không có cảnh tượng hai bệnh nhân nằm một giường.
Xin các bạn vào trang Wikipedia tìm đọc trang “Y Tế Việt Nam Cộng Hòa” sẽ thấy:
“Dịch vụ y tế bắt đầu ở cấp xã. Mỗi Xã có Ủy Viên Y Tế và một nữ hộ sinh, thường gọi là “cô đỡ” trông coi và giúp đỡ sản phụ ở thôn quê. Ủy viên y tế làm việc dưới sự giám sát của Hội đồng Xã. Mỗi Quận có Chi Y Tế dưới sự điều hành của cán sự y tế. Mỗi Tỉnh có một bệnh viện thuộc Ty Y Tế. Trưởng Ty Y Tế là một Bác Sĩ, trách nhiệm chương trình y tế trong tỉnh. Giám Đốc Bệnh Viện cũng là một Bác Sĩ Y Khoa. Bệnh nhân nhập viện vào các bệnh viện công cộng miễn phí hoàn toàn. Tại Sài Gòn, có những bệnh viện công cộng lớn, là: Bệnh Viện Chợ Rẫy, Bệnh Viện Vì Dân, Bệnh Viện Nhi Đồng, Bệnh Viện Từ Dũ, ..v..v…
Tổng số bệnh viện dân sự của Việt Nam Cộng Hòa vào năm 1965 là 101 cơ sở với 25.000 giường. Riêng thủ đô Sài Gòn có 11 bệnh viện công cộng cung cấp gần 5.000 giường. Một số chuyên khoa có bệnh viện riêng, như: Bệnh viện Nhi đồng Sài Gòn 220 giường. Khoa tâm thần có ba cơ sở chính: Bệnh viện Chợ Quán ở Sài Gòn, Bệnh viện Huế, và Bệnh viện Nguyễn Văn Hoài ở Biên Hòa.
Y Tế tư nhân có các phòng mạch, dưỡng đường, và bệnh viện. Vào giữa thập niên 1960, Việt Nam Cộng Hòa có khoảng 800 Bác Sĩ Y Khoa. Bệnh viện tư lớn phải kể đến Bệnh Viện Grall và Bệnh Viện Saint Paul ở Sài Gòn, Bệnh Viện Sùng Chính (200 giường) ở Chợ Lớn ”
Còn “thiên đường” bánh vẽ của chúng ta gần 40 năm sau năm 1975 thì sao? Hãy đọc một bài viết từ trang Baomoi.com trích bài trên báo Tuoitre Online:
“Chuyện 3 bệnh nhân 4 bệnh nhân nằm chung một giường đã có từ lâu lắm rồi, nhưng mãi đến gần đây Bộ Trưởng Bộ Y Tế mới biết, khi nhìn thấy nỗi khổ của người bệnh. Người dân luôn đặt ra câu hỏi rằng, tại sao các dự án nhà ở, khách sạn, sân golf… xây cất rất nhanh, trong khi xoay xở mãi mới có ngân khoản cho công trình bệnh viện, vì vậy mà công trình bệnh viện kéo dài thời gian mới xong. Nhìn lại các bệnh viện lâu đời như: Bệnh Viện Nhi Đồng, Bệnh Viện Ung Bướu, Bệnh Viện Từ Dũ, ..v..v.. , người ta khiếp sợ khi thấy cảnh bệnh nhân nằm chen chúc ngỗn ngang”.
Với các dẫn chứng ở trên, tác giả kết luận rằng:
Thứ nhất. Hoa Kỳ không xâm lược Việt Nam Cộng Hòa, mà họ giúp Việt Nam Cộng Hòa vừa chống lại Việt Nam Cộng Sản chúng ta theo lệnh Cộng Sản Quốc Tế xâm chiếm họ, vừa giúp quốc gia tự do non trẻ này phát triển toàn diện. Vì vậy, không thể gọi họ là “ngụy quân ngụy quyền. Trong khi Việt Nam Cộng Sản chúng ta mới thật là ngụy quân ngụy quyền vì là tay sai cho Cộng Sản Quốc Tế.
Thứ hai. Phải công nhận triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa đào tạo những thế hệ công dân đúng nghĩa, vì vậy mà Miền Nam đã có một xã hội mà mọi người sống với nhau rất chân thành và nhân ái, cùng nhau xây dựng và phát triển quốc gia. Trong khi Việt Nam Cộng Sản chúng ta với nền giáo dục dối trá, hình thành một xã hội mà mọi người sống với nhau bằng dối trá, phải nghe lời đảng tuyên truyền, và làm theo lệnh của đảng.
Thứ ba. Dù rằng tên Việt Nam Cộng Hòa trên bản đồ thế giới không còn nữa, nhưng con người do giáo dục của họ đào tạo vẫn còn đó, đang ở hải ngoại và vẫn ở Việt Nam theo cung cách sống đó. Trong khi Việt Nam Cộng Sản chúng ta vẫn phải trung thành với đảng là điều căn bản tuyệt đối. Đó cũng là lời của Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh phát biểu vào năm 1990, rằng: “Tôi cũng biết rằng, dựa vào Trung Quốc sẽ mất nước, nhưng thà mất nước còn hơn mất đảng”.
Câu cuối cùng của tác giả Đặng Chí Hùng: “Như một lời tri ân những công dân yêu nước Việt Nam Cộng Hòa, từ đáy lòng của một công dân trẻ sống trong chế độ độc tài cộng sản”. (tóm lược bài viết trong e-mail “ndhung@orange.fr” ngày 28/2/2023)
Kết luận.
Qua phần kết luận của tác giả Đặng Chí Hùng, tôi thấy đã đủ nên tôi không có ý kiến gì thêm, mà tôi muốn nói với Các Anh rằng, xã hội Việt Nam ngày nay có nhiều nhà cao cửa rộng, nhưng xây cất hỗn loạn làm mất cảnh quang của đô thị, đường sá nhiều hơn nhưng mau sụt lún sạt lở và cầu sập, xe cộ cũng nhiều hơn nhưng chạy hỗn loạn trên đường phố, và con người có ăn có mặc đẹp đẽ hơn thời bần cùn với tem phiếu, nhưng không gìn giữ nét văn hoá văn minh lịch sự.
Nói chung, sự phát triển thời Việt Cộng là phát triển theo quyền lực riêng của đảng viên, của lãnh đạo các cấp muốn làm gì thì làm, trong khi lòng nhân ái bên trong mỗi con người chẳng những không phát triển mà ngày càng nhỏ lại, nhỏ đến mức hầu như không còn chỗ chứa “sự thật, tình người,… thậm chí đến lời xin lỗi hay tiếng nói cám ơn của người lịch sự khi tiếp xúc với nhau cũng cạn kiệt”.
Vậy, Các Anh hãy đứng lên, cùng đứng lên, dân tộc sẽ đứng lên cạnh Các Anh, cùng giành lại Quyền Làm Người của mình. Các Anh không đứng lên, sẽ không bao giờ có quốc gia nào đến Việt Nam giành lại Quyền Làm Người giùm Các Anh đâu.
Và Các Anh phải hiểu rằng, “Dân Chủ Tự Do không phải là quà tặng, mà chính dân tộc Việt Nam phải tranh đấu, và Các Anh là thành phần nòng cốt trong cuộc tranh đấu này”, trong khi Cộng Đồng chúng tôi tị nạn Việt Cộng tại hải ngoại có nhiều điều kiện thuận lợi, với nhiều cách vận động những quốc gia phát triển giúp Các Anh và đồng bào làm nên lịch sử.
Texas, ngày 1 tháng 4 năm 2023
Phạm Bá Hoa
Be the first to comment