Có lẽ nhiều độc giả và thính giả Việt ở Bắc Mỹ, và cả chính tôi, chưa được nghe nhiều hay thưởng thức các ca khúc của nữ nhạc sĩ Jazzy Dạ Lam, mặc dù báo chí và truyền thông ở Việt Nam và Âu Châu đã giới thiệu về người nhạc sĩ này, theo tôi, rất tài hoa và hiếm quý.
Trong bài này tôi trang trọng giới thiệu đôi điều về cô. Dĩ nhiên việc giới thiệu này muốn đầy đủ cần nhiều tư liệu và thời gian. Thế nên tôi để dành cho những người hâm mộ tài năng của cô viết thêm trong tương lai. Giới thiệu về cô trên phương diện một người yêu văn hoá Việt Hải Ngoại, thích thưởng lãm âm nhạc nói riêng và văn học nghệ thuật nói chung. Tôi giới thiệu vị nữ lưu nhạc sĩ này bằng nhận thức của người không đủ căn bản học thuật âm nhạc, nhưng bằng cảm nhận của một thính giả.
Dù đã nghe một số ca khúc và đọc về sáng tác của cô, bút hiệu Jazzy khơi dậy trong tôi sự tò mò về nhạc Jazz. Một số bạn bè của tôi thường bảo rằng không có ca khúc nào hay hoặc dở, chỉ có ca khúc mình thích nghe hay không thích nghe. Điều này đúng nhưng không đủ để thẩm định về giá trị nghệ thuật của ca khúc. Theo tôi, kiến thức đóng góp phần quan trọng cho việc thưởng thức nghệ thuật. Ở Hoa Kỳ, chương trình Đại Học có những lớp dạy sinh viên cách thưởng lãm và lượng giá nghệ thuật từ âm nhạc đến hội hoạ hay kiến trúc. Vì cô dùng từ Jazzy là chữ đầu tiên của bút hiệu (nghệ danh) nên ta có thể đoán rằng có thể cô đã dụng ý khơi lên trong trí người nghe về dòng nhạc Jazz ẩn hiện trên các ca khúc của mình. Tôi chưa hỏi về sáng tác của cô theo dòng nhạc nào, nhưng dựa vào bút hiệu, tôi đoán chắc phải có âm hưởng Jazz không nhiều thì cũng lãng đãng phiêu bồng. Trước khi trình bày cảm nghĩ khi nghe ca khúc của Jazzy Dạ Lam, tôi chia sẻ với độc giả và thân hữu, nếu chưa từng đọc hay nghe về nguồn gốc của dòng nhạc này, vài chi tiết về lịch sử nhạc Jazz, rồi mời quý vị tham dự vào mạn đàm với nữ lưu nghệ sĩ rất đặc biệt này.
Nhạc Jazz là gì?
Phôi thai và phát triển ở Hoa Kỳ, nhạc Jazz được ghi nhận là di sản văn hoá tinh ròng Hoa Kỳ đã đóng góp một phần quan trọng cho âm nhạc thế giới. Năm 1987, quốc hội Hoa Kỳ đã đồng nhất thông qua nghị quyết vinh danh nhạc Jazz như bảo báu (bảo vật?) quốc gia. Gần đây, năm 2017 là năm kỷ niệm sinh nhật 100 tuổi của Jazz tính từ ngày ca khúc nhạc Jazz đầu tiên, Lovery Stable Blues, được thu âm khoảng tháng Giêng 1917 tại New York bởi ban nhạc The Original Dixieland Jass Band (ODJB) gồm năm nhạc sĩ da trắng, drummer-Johnney Stein, cornetist-Nick LaRocca, trombonist- Eddie Edwards, pianist-Henry Ragas, và clarinetist-Alcide “Yellow” Nunez. Cả năm vị này đều xuất thân từ New Orleans.
Thời ấy chữ Jazz chưa được dùng nhưng sau này không biết từ lúc nào danh từ Jass đã được thay bằng từ Jazz. Theo giáo sư Lewis Porter, một nhạc sĩ dương cầm chuyên môn về Jazz, truy nguyên danh từ Jazz có lẽ là việc khó làm vì chưa ai có bằng chứng rõ ràng để xác định ai là người đầu tiên đã dùng danh từ Jazz để đặt tên cho một trường phái âm nhạc được xem là sản phẩm văn hoá tinh ròng của Hoa Kỳ. Dường như mỗi người định nghĩa Jazz theo sự hiểu biết hay sở thích của mình. Riêng về ca khúc đầu tiên của nhạc Jazz được thu âm năm 1917, nhà nhạc học Katherine M. Maskell giải thích rằng bài Livery Stable Blues được coi như giao lưu giữa nhạc Blues, Ragtime và nhạc diễu hành (band music). Khi ca khúc này được chính thức phát hành, thính giả Hoa Kỳ lần đầu được nghe một phong cách âm nhạc thật mới lạ. Ca khúc có cấu trúc 12 trường canh theo tiến trình chuyển hoà âm I-IV-I-V-I hay chủ âm (tonic), dominant (át âm), và subdominant (hạ át âm). Ý và lời ca sau đây thật ra không có gì lạ nhưng âm điệu và tiến trình chuyển hoà âm (chord progression) đã nâng cao lời ca và thu hút được người nghe một cách dễ dàng. Mời bạn đọc ca từ của ca khúc tạo nên lịch sử nhạc Jazz sau đây.
Livery Stable Blues
Composers: Ray Lopez and Alcide Nunez
Come on and hear, come on and hear,
Way down in Alabam
It was in Birmingham,
There was a lazy colored fellow named Lee.
Instead of working all day
upon the stable brush he’d play.
To the horses he’d sing
and play upon a string
This sad and lonesome melody.
(Hãy đến mà nghe, hãy đến mà nghe,
Dưới bang Alabam (Alabama)
Ở thành phố Birmingham,
Có chàng da đen biếng lười tên Lee.
Thay vì làm việc cả ngày
Chàng cầm lược chải lông ngựa mà chơi
Nghêu ngao chàng hát cho bầy ngựa nghe
Tay khảy lông lược chơi đàn
Điệu nhạc buồn bã cô đơn.)
Các nhà nghiên cứu về lịch sử âm nhạc Hoa Kỳ, cách riêng về nhạc Jazz, ghi nhận rằng nhạc Jazz được phôi thai khoảng cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 tại New Orleans, Louisiana. Thế nhưng, hạt mầm nhạc Jazz đã được hơn 400 ngàn người dân Tây Phi Châu (West Africa) và người dân sống vùng lưu vực sông Congo mang sang Bắc Mỹ. Họ là những dân lành vô tội bị cưỡng bách hay bắt cóc rồi bị bán cho những tay buôn nô lệ từ Âu Châu đi lùng mua người để mang sang bán lại cho các điền chủ da trắng từ Châu Mỹ la Tinh (Latin America) sang các quần đảo Caribean, và Hoa Kỳ và từ thế kỷ 19. Như vậy nguồn gốc nhạc Jazz được người nô lệ da đen mang theo như di sản văn hoá để có nơi nương tựa. Nói chung, dòng nhạc dân ca Tây Phi là dòng nhạc đơn điệu và các bài hát được diễn tả theo cách “gọi-và-đáp” (call-and-response).
Theo thời gian, nhạc Ragtime và Blues dọn đường và mở cửa cho dòng nhạc Jazz được ra đời và phát triển. Một điểm chính của nhạc Ragtime là sử dụng nhịp điệu đảo phách tạo ra sự hào hứng sôi động. Nhạc sĩ da đen Ernest Hogan đã dùng từ Ragtime cho dòng nhạc mới. Ông sáng tác hài vũ (comedy dance) và nhiều ca khúc nổi tiếng như bài “La Pas Ma La”; có lẽ ca khúc Ragtime tựa đề “Maple Leaf Rag” của Scott Joplin là ca khúc ăn khách nhất vì bài hát đã bán được cả triệu ấn bản. Nhạc Ragtime chủ yếu được soạn cho dương cầm và được nghệ sĩ dương cầm biểu diễn ở các quán rượu dân dã có sàn khiêu vũ ở miền Nam và miền Trung Tây Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ 20, và Bang Missouri là thủ đô của nhạc Ragtime. Bên cạnh nhạc Ragtime là nhạc Blues.
Dòng nhạc Blues được xem như dân ca phát xuất từ nỗi nhọc nhằn cực khổ của người da đen ở châu thổ sông Mississippi. Thành ngữ tiếng Anh “Having the blues,” có nghĩa là đang gặp phải sự muộn phiền hay buồn nản. Thế thì danh xưng nhạc Blues có lẽ phát xuất từ thành ngữ này. Nhạc blues chủ yếu là giọng hát với phần đệm đàn tuỳ vào nhạc cụ có sẵn. Hầu hết nhạc sĩ đồng ý rằng thang âm blues là biến thể của thang âm trưởng và thang âm thứ của thang âm ngũ cung.
Dân ca của các dân tộc trên địa cầu dường như đều được cấu trúc theo thang âm ngũ cung (pentatonic scale). Nhạc Blues cũng cấu trúc theo thang âm ngũ cung nhưng lại thêm một nốt nhạc nữa. Người ta còn cho rằng nhạc Blues là mẹ của các thể loại nhạc thịnh hành đương đại từ nhạc dân dã (Country Music), đến nhạc Rock, và ngay cả nhạc Hip Hop.
Trở lại nhạc Jazz, đây là dòng nhạc mà sự ngẫu hứng (improvisation) đóng vai trò quan trọng. Các nhạc sĩ và cả ca sĩ cần có khả năng ngẫu hứng hay sáng tác tại chỗ. Trong hầu hết các buổi biểu diễn nhạc jazz, mỗi nhạc sĩ trong ban nhạc đều sáng tác ngẫu hứng khi đến phiên mình độc tấu, điều này đòi hỏi nhạc sĩ phải có kỹ năng cao. Ta có thể nghe và cảm được lúc các nhạc sĩ đối thoại với nhau (gọi-và-đáp / call-and-response) bằng nhạc cụ họ sử dụng. Và ngay cả ca sĩ cũng ngẫu hứng đối đáp lại lời mời gọi của ban nhạc qua tiếng kèn hay tiếng trống. Nhạc jazz rất đa dạng, nhưng rất nhịp nhàng, các nhạc sĩ thường sử dụng những nốt luyến láy (bent) hay nốt blues (nghe có thể như lạc cung). Nhạc Jazz diễn tả nhiều cảm xúc khác nhau, từ buồn đau đến hạnh phúc tuyệt đối. Trên một hình thức nào đó nhạc Jazz cho ta diễn tả cảm xúc tự do và giúp ta thoát được sự cưỡng bách từ các áp lực bên ngoài. Cũng như người da đen bị cưỡng ép làm nô lệ đã tìm được tự do trong tâm hồn qua các dòng nhạc Ragtime, Blues rồi đến Jazz. Theo dòng thời gian, Jazz đã biến dạng thành hàng chục loại như Swing, Bebop, Cool Jazz, rồi Modern Jazz.
Jazz đã vào Việt Nam qua những ca khúc viết theo nhịp điệu Bebop. Thời sinh viên tôi nhớ là trong những buổi dạ vũ, mỗi lần bài hát điệu Bebop nổi lên là nhiều cặp ra sàn nhảy uốn éo, xoay vòng, lắc lư rất vui nhộn.
Quê Hương Jazz trong ký ức tôi.
Gần cuối Mùa Thu 1975, vào dịp lễ Tạ Ơn ở Hoa Kỳ, anh Joe và chị Chris đưa tôi đi thăm mẹ anh ở Bay St Louis, Mississippi và thăm gia đình chị Chris ở New Orleans. Nhà anh chị ở Ocean Springs, Mississippi trên cùng tuyến đường đến nhà mẹ anh và gia đình chị. Hai anh chị lớn hơn tôi khoảng bốn năm tuổi vì cả hai mới tốt nghiệp Thạc Sĩ và cùng dạy học ở Biloxi, vậy mà họ dám cả gan nhận làm bảo trợ cho tôi, thanh niên vừa bước vào tuổi 20, để tôi được rời trại tỵ nạn về sống chung với anh chị hoàn toàn miễn phí trước khi tôi có thể tự sống một mình.
Trong chuyến thăm gia đình chị Chris, tôi được đưa dạo phố New Orleans và dường như du khách nào đến thành phố này cũng đều tìm đến khu French Quarter hay con đường Bourbon. Lần đầu ra khu phố này tôi tưởng mình lạc vào thế giới hư ảo, người đi chật đường và không gian đầy ắp âm nhạc. Tôi đã được xem các ban nhạc kèn đồng diễn hành và đoàn người đi theo nhảy múa nhịp nhàng. Sau này tôi mới biết các ban nhạc diễn hành được gọi là Second Line Parades vì cuộc diễn hành đi theo thứ tự hàng đầu là ban tổ chức và đội nhạc, hàng hai là những khách bên lề muốn tham gia cuộc diễn hành. Bạn ghé thăm New Orleans nên ra phố chiều Chủ Nhật để xem hay tham gia vào những cuộc diễn hành vui nhộn này. Tôi tạm cư ở miền ven vịnh Gulf of Mexico, bang Mississippi hai năm và cứ cách một hai tuần là lại sang New Orleans lang thang trên đường Bourbon ban đêm với anh bạn để nhòm xem những phòng khiêu vũ khoả thân và nghe tiếng kèn, tiếng dương cầm như những làn gió lạ ùa vào tai mình. Dĩ nhiên lúc ấy mình chưa hề biết tí gì về Jazz. Mấy chục năm nay, cứ khoảng 2 đến 3 năm tôi lại có dịp về New Orleans trong những cuộc hội nghị. Và lần nào cũng ghé thăm đường Bourbon, đến Café Du Monde bên đường Decatur uống cà phê ăn bánh Beignets. Có điểm tình cờ đáng để ý là hai vị nhạc sĩ và nhạc sư danh tiếng của nền Thánh Ca Việt Nam, lm. Ngô Duy Linh và Hải Linh đã nằm yên nghỉ dưới lòng đất nghĩa trang ở Avondale, ngôi làng nhỏ phía Tây của New Orleans. Một người bạn đàn anh văn nghệ, cố linh mục nhà văn Trần Cao Tường cũng nằm yên nghỉ tại nghĩa trang này nên mỗi lần về thăm New Orleans tôi đều ghé ra nghĩa trang chào linh hồn các vị này. Xem như âm nhạc và văn chương Việt Nam đã được ký thác ở quê hương Jazz.
Ca Khúc Jazzy Dạ Lam Nghe Quen Mà Lạ.
Như đã gợi ý, trong bài này tôi trân trọng giới thiệu với bạn bè và độc giả Việt Nam tại Hoa Kỳ và Hải Ngoại về một nữ nhạc sĩ mà theo tôi rất đặc biệt và đáng cho người yêu âm nhạc Việt chú ý thêm. Trong lịch sử sáng tác ca khúc Việt Nam từ thời tiền khởi đến nay, con số nữ nhạc sĩ có lẽ cũng khó tìm như lá xanh cuối mùa Thu. Hy vọng rồi đây sẽ có sinh viên chuyên về nhạc sử Việt làm một thống kê về các nhạc sĩ ca khúc Việt Nam để có con số chính xác về các nữ nhạc sĩ. Đa số các nhạc sĩ ca khúc Việt không có khả năng về soạn hoà âm và biểu diễn ca khúc của mình ở trình độ cao. Tôi đã được nghe thiên tài ca khúc Phạm Duy ôm đàn hát, trông rất nghệ sĩ, nhưng khi ông cất tiếng hát và đệm đàn thì không được như tôi mong tưởng. Nhiều nhạc sĩ chỉ đủ khả năng soạn ca khúc theo âm điệu dựa vào tiếng đàn, nhưng không có khả năng xếp đặt hoà âm cho ca khúc mình sáng tác. Jazzy Dạ Lam có khả năng làm tất cả những việc từ sáng tác ca khúc, đến soạn hoà âm, và biểu diễn ca khúc mình sáng tác, theo tôi, rất xuất sắc. Tôi chưa hân hạnh gặp người nhạc sĩ tài hoa này, nhưng đã nghe vài ca khúc của cô, và muốn tìm hiểu thêm về dòng nhạc của cô.
Văn học nghệ thuật, cách riêng âm nhạc Việt Nam, đã có những thay đổi đáng kể từ sau chiến tranh (1975) đến nay. Tuy nhiên rất nhiều thính giả và nhạc sĩ viết ca khúc Việt vẫn còn cố níu kéo lại âm điệu quen thuộc và cấu trúc ca khúc theo các điệu nhạc từ thế kỷ 20. Hiện nay những điệu nhạc như Bolero hay Tango vẫn được nhiều người Việt yêu mến đến say mê có lẽ vì quen thuộc cũng như nhiều người quen ăn phở và không nghĩ đến món nào khác ngoài phở. Nếu ta chỉ mê ăn phở, bún bò, bún riêu thì ta không bao giờ thưởng thức được những món ăn với nhiều hương vị ngon lạ của các dân tộc hay văn hoá khác. Đấy là phía người nghe, còn về phía sáng tác, ta thấy có những khai phá mới nhưng nhiều nhạc sĩ ca khúc vẫn còn tự ràng buộc vào những gì quen thuộc.
Lần đầu tiên tôi nghe ca khúc “Võng Đêm” của Jazzy Dạ Lam, được lưu chuyển qua email trong một nhóm văn nghệ thân hữu, rồi giật mình, ngạc nhiên đến thú vị. Ca khúc có giai điệu thanh thoát từ nguồn dân ca Nam Việt rồi dường như cũng thoang thoảng dân ca Bắc và Trung. Nghe đi nghe lại nhiều lần và mỗi lần nghe là mỗi khám phá mới. Nghe ca khúc của cô làm tôi nhớ lại kỷ niệm một chiều mùa Đông lâu lắm rồi, đứng chờ chuyến tàu điện dưới lòng thành phố Boston và nghe nhạc sĩ hát dạo, da đen, ôm đàn ghi-ta hát một ca khúc lạ hoắc, với tôi, nhưng làm lòng mình cảm thấy có gì gần gũi. Sau này tôi mới biết ca khúc anh ta hát chiều Đông năm ấy là bài Summertime của George Gershwin và được danh ca Ella Fitzgerald hát. Giai điệu của bài hát được Ella Fitzgerald diễn tả nghe có lúc ngọt ngào và cũng có khi ray rứt băn khoăn. Dù đã nghe rất nhiều lần, nhất là giữa những đêm không ngủ, giọng ca của Ella vẫn làm lòng mình rơi vào miền âm thanh mơ hồ khó tả. Không thể so sánh Jazzy Dạ Lam với Ella Fitzgerald nhưng tôi chỉ muốn thưa rằng nghe Jazzy ca, tôi cũng thấy có gì mênh mang lúc ngọt ngào lúc băn khoăn ray rứt. Và hơn nữa là dòng nhạc của cô kéo ta trở lại cội nguồn tưởng đã lãng quên. Jazzy đưa người nghe về dòng nhạc quê hương không phải để tìm những điều đã cũ nhưng để khám phá những điều mới lạ ẩn mình trong dân ca Việt. Dù gì chăng nữa, cô đã được Jazz nuôi dưỡng và nghệ thuật âm nhạc ca khúc của cô cũng đã được nẩy mầm trên cánh đồng nhạc Jazz.
Vài Nét Cọ Trên Chân Dung Nhạc Sĩ.

Theo cô trả lời cho một bài phỏng vấn trên báo Tiền Phong, Jazzy Dạ Lam là nghệ danh còn tên cha mẹ đặt là Nguyễn Thảo Hương. Cô còn dùng tên Helena Nguyễn trong sinh hoạt nghệ thuật của cô ở Âu Châu. Thật ra tôi không thích dùng từ nghệ danh nên muốn gọi Jazzy Dạ Lam là bút hiệu hay bút danh của cô. Từ nghệ danh vẫn còn mới với tôi và rộng quá. Một nghệ sĩ không sáng tác mà chỉ trình diễn cũng được gọi là nghệ nhân với một nghệ danh nào đấy. Cô được sinh ra và nuôi dưỡng trong một gia đình âm nhạc vì cả bố mẹ cô đều là nhạc sĩ và nhạc sư. Thời thơ ấu và niên thiếu học âm nhạc ở học viện âm nhạc TPHCM, nơi mà tôi vẫn chỉ có thể gọi là Sài Gòn.
Cuối thập niên 80, cô được học bổng theo học dương cầm ở Moscow, hai năm trước khi Liên Hiệp Nga sụp đổ. Sau đó cô di cư sang Đức tiếp tục học dương cầm chuyên về Jazz tại nhạc viện Richard Strauss, nay đã được sát nhập vào The Munich University of Music and Drama, một đại học có tầm vóc ở Đức. Như vậy là cô lớn lên sau chiến tranh Việt Nam? Cuộc hành trình học nhạc của cô chắc đã trải qua nhiều gian nan, đúng như câu tục ngữ “Lửa thử vàng, gian nan thử sức.”
Ngay từ thời niên thiếu cô đã ôm mộng nhạc sĩ sáng tác. Năm đang học lớp 7, cô phổ nhạc cho bài thơ của cô bạn cùng lớp có tựa đề “Hát Vui Bốn Mùa.” Bài hát được ký tên tác giả là Nguyễn Thảo Hương phổ nhạc bài thơ của thi sĩ thiếu nhi Đoàn Thị Phương Ái. Cô bé nhạc sĩ còn ghi chú cách diễn tả bài hát là “Rộn ràng-nhí nhảnh-tươi tắn.” Tôi đọc bản thảo viết tay của bài hát, dù là hình chụp, nhưng nhận ngay ra những dấu hiệu đầy hứa hẹn trên nét chữ và dòng nhạc. Nét chữ ngày bé đã lộ ra đức tính chuyên cần. Điều này rất quan trọng và cần thiết cho nghệ sĩ sáng tác. Theo tôi, Jazzy Dạ Lam có đủ các yếu tố của một nghệ sĩ sáng tác bao gồm tâm hồn nhậy cảm, lòng yêu chân thiện mỹ, và kỹ năng học thuật. Nhậy cảm để biết và cảm thông được những gì đang xảy ra quanh ta. Lòng yêu chân thiện mỹ để dùng khả năng nghệ thuật làm đẹp thêm cho cuộc đời cho tình người. Và kỹ năng học thuật giúp cho nghệ sĩ sáng tác tìm ra phương pháp sáng tạo riêng cho mình. Các tác phẩm nghệ thuật không phải ngẫu nhiên mà có, nên nghệ sĩ sáng phải làm việc liên tục để hoàn thành tác phẩm.
Đi Vào Ca Khúc Jazzy Dạ Lam.
Đương nhiên là tôi không có trình độ âm nhạc để bàn về Jazzy Dạ Lam cho đúng với tầm vóc và chiều sâu trong dòng nhạc của cô. Nhưng khi nghe, và nhất là đọc tác phẩm ca khúc của cô trên giấy kẻ nhạc, tôi thấy cô đã sử dụng các hợp âm Jazz trong tiến trình hợp âm để tạo ra hương vị, màu sắc, ấn tượng cho dòng nhạc, nâng cao giá trị lời ca và giọng hát. Khi nghe các ca khúc của cô, tôi cảm được nét thanh tao, nhẹ nhàng, duyên dáng, khiêu gợi thính giác rất dịu dàng. Ta có thể dùng lời thẩm định của Thi Hào Nguyễn Du về tiếng đàn của Kiều biểu diễn riêng cho Kim Trọng trong một đêm hạnh ngộ để gợi ý về dòng nhạc và phong cách đàn dương cầm của Jazzy Dạ Lam.
Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như tiếng suối mới xa nửa vời
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.
(Truyện Kiều Nguyễn Du)
Thật ra tiếng đàn của Kiều là tiếng đàn đơn điệu, không so được với tiếng dương cầm đa điệu đa âm thoát ra từ những ngón tay của Jazzy Dạ Lam lúc cô vừa đàn vừa hát. Rất tiếc vì chưa được tham dự buổi trình diễn sống (live show) của cô nên khó mà tả được.
Dù cô cho biết xa quê hương lúc còn trẻ, nhưng khả năng dùng và viết ca từ của cô, theo tôi, có trình độ rất cao. Cô đã chọn những bài thơ rất đẹp để soạn thành ca khúc. Một số ca khúc của cô có lời ca dù đẹp nhưng rất trừu tượng, có lẽ cũng là nguyên do khiến nhiều thính giả Việt chưa đón nhận ca khúc của cô dễ dàng. Các học giả tâm lý như Vanum, Krems, Moris, Womley, và Grossman trong bài khảo cứu đăng trên tạp chí PLOS ONE (2021) đã phân tích ca từ của hơn 14 ngàn (14.661) ca khúc tuyển chọn từ năm 1959 đến 2016, và họ đã tìm ra lý do các ca khúc được quần chúng hâm mộ nhiều vì có lời ca rất đơn giản. Càng ngày ca từ càng đơn giản hơn vì những biến chuyển xã hội và văn hoá.
“Võng Đêm” là ca khúc đầu tiên của Jazzy Dạ Lam mà tôi nghe rất kỹ vì đã bị thu hút bởi dòng nhạc và cách diễn tả của cô. Âm điệu của “Võng Đêm” như chiếc cầu dây đưa ta qua lại hai bờ dòng sông, bên quen bên lạ. Nghe âm điệu và lời ca ta có cảm tưởng như ca khúc này được phôi thai từ nguồn dân ca Việt rồi lớn lên trong âm điệu Tây phương, dường như có hương vị và màu sắc nhạc Blues và nhạc Jazz. Ca từ của “Võng Đêm” nghe như câu ca dao bị cắt làm hai vì cô sử dụng 6 chữ cho lời ca.
Võng đêm êm à ru hời
Bóng ngả í à bên nôi
……
Ấm lan hơi thở hiền hoà
Hồn nhiên say giấc lụa là…
(Võng Đêm)
Ca khúc “Trăng Và Em” trong CD đầu tay của cô là ca khúc đầy ấn tượng từ dòng nhạc đến ca từ. Nhưng cách cô phát âm những chữ cuối câu nhạc làm tôi bị cảm giác hụt hẫng thế nào ấy. Thí dụ khi cô hát “sau đồi con gái,” âm hưởng ngân của chữ “gái’ làm mất đi sự dịu dàng lãng mạn về hình bóng của trăng và thiếu nữ. Rồi khi hát “tình vẫn mù xa,” cách diễn tả làm mất đi sự nhung nhớ đợi chờ của câu nhạc.
Ta lặn vào trăng vàng đêm ấy
Em căng tròn trịa/ nét hoang sơ
Đêm trong vắt/ và đôi mắt em trong vắt
——
Bất chợt trăng mọc lên/ phía sau đồi con gái
——
Trăng thật gần/ tình vẫn mù xa…
(Trăng và Em)
https://www.youtube.com/watch?v=01BmyRwgELM
Thế nhưng khi tôi nghe ca khúc “Màu Đêm” thì lại khác. Cách cô hát và diễn tả từng ca từ rất mềm dịu, mượt mà, da diết, băn khoăn. Bài ca nghe có lúc như lời kinh đêm hay lời than âm thầm cho một cuộc tình dang dở, hay những mất mát đậm đau. Theo tôi Jazzy đã hát bài Màu Đêm rất hay, khiến người nghe cũng cảm được nỗi lòng tan tác.
Có đoá thạch quỳnh/ chết giữa đêm sương
Những cánh trầm hương/ tìm về cát bụi
—
Có vành môi ấm/ tiếng lòng bâng khuâng
—
Có ánh nguyệt tàn/ lạc cuối không gian
—
(Màu Đêm)
https://www.youtube.com/watch?v=2Dyn_bvTGbA
Khi nghe ca khúc cô viết cho mẹ, tôi nghe được tiếng người con dù đã lớn, đã lao vào đời sống giữa ngàn truân chuyên, đã già dặn theo thời gian, nhưng vẫn muốn úp mặt vào lòng mẹ thỏ thẻ rằng con yêu mẹ. Phần nhạc dạo cô rải mười ngón trên phím đàn như rắc vào không gian âm điệu mềm dịu, trìu mến, thiết tha như lời nũng nịu của người con muốn cho mẹ biết là mình yêu mẹ nhiều lắm. Khác những ca khúc đã nhắc đến, lời ca trong Mẹ rất hồn nhiên mộc mạc.
Mẹ yêu kính ơi
Xin gửi tới Người
Dẫu bao muộn phiền
Mẹ luôn mỉm cười
Một ngày bình yên
Đến cho mẹ hiền
(Mẹ)
https://www.youtube.com/watch?v=cpQCTN-3EI4
Nạn ác dịch Covid 19 khởi từ đầu năm 2020 đã ảnh hưởng đến loài người và mọi xã hội trên địa cầu. Chúng ta thấy có nhiều thái độ sống được biểu lộ ra trong hơn một năm qua. Có người làm ngơ, đổ lỗi cho nhau, coi thường dịch bệnh, ẩn mình chờ thời, cầu khẩn thần thánh, hay lao đầu vào nguy hiểm để phục vụ bệnh nhân xấu số. Nếu bạn đọc La Peste-Dịch Hạch của Albert Camus bạn thấy được nạn dịch hạch ông kể trong tiểu thuyết không khác gì những sự đã xảy ra trong thời dịch Covid. Camus cho ta biết rằng cuộc sống và những gì xảy ra trong cuộc sống này hoàn toàn phi lý. Thế nhưng mỗi người phải chọn cho mình một lối sống để đương đầu với sự phi lý mà ta phải chấp nhận. Theo Camus, ta phải lăn xả vào cuộc đời và hành động tích cực như nhân vật bác sĩ Bernard Rieux và nhóm bạn đã chọn thái độ hành động tích cực giúp cư dân trong thành phố đương đầu với nạn dịch hạch thay vì bỏ trốn đi hay làm ngơ để thủ thân. Jazzy Dạ Lam đã chọn một thái độ sống tích cực để đương đầu với đại dịch Covid thay vì ẩn mình làm ngơ. Cô gửi thông điệp sống tích cực qua ca khúc The Sign như lời nhắn và mời gọi mọi người cùng chung tay làm đẹp đời sống quanh ta.
Make a vow / Joint the hands / Build a place /
Stay the course / that will house the whole human race
(The Sign)
https://www.youtube.com/watch?v=M_Mf4W0KYJo
Không Gian Và Người Nghe Jazzy Dạ Lam.
Ca khúc của Jazzy cần được nghe ở một không gian tĩnh lặng. Mỗi dòng nhạc đòi hỏi một không gian và loại người nghe. Ta có thể ngồi vỉa hè Sài Gòn hay Hà Nội ăn vội một tô phở, hay uống vội ly cà phê sữa đá. Nhưng nếu ta muốn thưởng thức một món ăn cầu kỳ hơn, chất lượng hơn ta cần phải đến đúng chỗ có bàn ghế và được tiếp đón ân cần. Mình không thể ngồi quán bên đường để thưởng thức món thịt cừu nướng như món Rack of Lamb hay món Rib Eye Steak. Mình cũng không uống rượu vang trong quán ăn vội, nhưng phải ngồi thư thả thoải mái trong phòng với nhiệt độ dịu mát thì mới hưởng được hương vị thức ăn và rượu. Nói thế không phải là coi thường tô phở ở quán bên đường vì có nhiều quán khiêm nhường nhưng phở lại tuyệt ngon. Tôi nghĩ ca khúc của Jazzy có lẽ khó đi vào lòng quần chúng Việt dễ dàng, nhưng lại có một chỗ đứng rất tốt đẹp dù chỗ ấy không đông, không ồn ào náo nhiệt.
Ngoài tiếng Việt, Dạ Lam còn sáng tác ca khúc bằng các ngôn ngữ khác như tiếng Anh, Đức và Pháp. Cô còn soạn nhạc cho vở ca kịch dựa trên truyện Kiều bằng tiếng Pháp. Bài viết này không thể bàn hay giới thiệu hết những tác phẩm ca khúc của cô. Bạn sẽ khám phá được những điểm rất đặc biệt về người nhạc sĩ tài hoa này trong phần mạn đàm sau đây.
======

TTM. Chào nhạc sĩ Jazzy Dạ Lam, dù cô cho biết là “…thiệt sự giờ em không còn nhu cầu hướng ngoại để được giới thiệu hay quan tâm từ bên ngoài nữa,” nhưng cô vẫn rộng tình cho tôi dịp để trao đổi với cô. Đọc trả lời cô gửi tôi có cảm tưởng cô như người leo núi đã biết mình leo lên tới đâu rồi. Tôi cũng muốn thanh minh rằng tôi không phải là nhà báo, nhưng chỉ là người yêu mến văn học nghệ thuật Việt, trong đó có âm nhạc Việt. Xin cô cho biết cô bắt đầu nghiệp sáng tác ca khúc và trình diễn từ bao giờ?
Jazzy Dạ Lam. Chào anh Thu Miên. Em hay nghe mẹ kể, hồi nhỏ em suốt ngày “chế” giai điệu ra hát linh tinh. Năm 13 tuổi, học lớp 7, em có phổ nhạc một bài thơ của cô bạn viết trong tập lưu bút. Cả lấy “thư tình tuổi hoa niên” ra viết thành bài hát. Và vì học nhạc nên sẵn đàn sẵn trớn sẵn cơn, hứng lúc nào thì cứ… vọc lung tung lúc đó thôi 🙂 Còn sáng tác “đầu đời” là bài “Cây thông mà cũng biết hát” được viết năm lên 6 tuổi, phổ nhạc vào một bài thơ (rất tiếc không còn nhớ tên tác giả, chắc em phải hỏi lại mẹ) đọc được từ báo thiếu nhi Kim Đồng. Ê a hát rồi mẹ hỏi “con hát gì vậy?”, thế là khoe liền “bài con mới chế đó!”
“… em nghe mẹ kể chuyện / ngày xưa có cây thông…..”
Trình diễn cũng là một kỹ năng em được trau dồi từ nhỏ. Mỗi học kỳ đều có biểu diễn khoa. Ngoài ra còn biểu diễn trong chương trình nhạc thính phòng do trường quốc gia âm nhạc tổ chức. Thời đó, khán giả thưởng thức nhạc cổ điển thính phòng mua vé đi ủng hộ phần lớn là gia đình bạn bè các “nghệ sĩ tí hon”, vậy mà cũng có nhiều buổi kín cả hội trường luôn đó 🙂
TTM. Như vậy là cô đã được nuôi dưỡng trong một gia đình có gốc gác âm nhạc và bố mẹ cô hẳn có tầm nhìn rộng về nghệ thuật, nên đã khuyến khích cô phát triển tài năng từ thơ ấu. Những gì thôi thúc cô sáng tác?
Jazzy Dạ Lam. Cũng mẹ em kể, hồi em khoảng 5-6 tuổi, mẹ làm việc khuya, vào phòng ngủ thấy em còn mở mắt thao láo, hỏi sao chưa ngủ đi, em mới bá cổ mẹ nói là vì nghe nhạc hay quá ngủ không được, “sao nhạc không lời có thể nói được nhiều điều nhạc có lời không diễn tả được hay quá!”. Số là con bé nằm nghe lóm radio chương trình nhạc không lời lúc 22h đêm, từ cửa sổ nhà hàng xóm vọng qua, rồi thao thức như người lớn… hahaha. Thế nên nó mới nhiều chuyện từ nhỏ, bi bô hát nhạc tự chế (có thể loại đàng hoàng luôn 😀 thí dụ variations phát triển từ chủ đề nào đó của Mozart, Schubert, Brahms, hay Grieg….) rồi tưởng mình “nghệ sĩ nhớn” hay gì ghê gớm lắm 😀 Nhưng lúc đó mới 6 tuổi, chưa được mẹ dạy ký xướng âm nên chỉ hát chứ không biết ký âm xuống giấy, mẹ bảo “hát lại mẹ nghe đi”, thì bảo “nãy hát sao giờ con quên rồi” 😀
Đó là chuyện lúc bé. Lớn hơn chút, dù biết ký âm, cũng chỉ hứng là đánh lung tung, chứ không bao giờ ghi xuống, không coi việc ký âm để lưu giữ lại cho mình một khúc nhạc hoàn chỉnh, hay nói khác đi, sáng tác là việc gì quan trọng. Sáng tác chỉ là nhu cầu tấu lên âm thanh hay giai điệu và màu sắc hoà âm mình nghe được trong đầu bằng phương tiện là cây đàn, cho mình lắng nghe và sống với cảm xúc bằng âm thanh vào giây phút đó thôi.
Lớn thêm chút nữa, vì hay hát, và vì thích hát lên những giai điệu của mình, mới phải gồng mình tập viết lời. Phần lời do vậy không phải là thế mạnh của em. Nhưng dù nó có ngô nghê thế nào, cũng là những cảm xúc và suy nghĩ một thời như thế.
TTM. Sáng tác ca khúc bằng ngôn ngữ nào và tại sao?
Jazzy Dạ Lam. Xa nhà từ nhỏ, nên vốn tiếng Việt của em rất hạn chế. Dù vậy, vẫn là thứ tiếng em dùng nhiều nhất khi sáng tác ca khúc, vì nói gì thì Tiếng Việt vẫn là “tiếng mẹ đẻ”, là ngôn ngữ em có thể dùng để chuyển tải tâm tình mình một cách dễ dàng nhất. Nhưng tới giờ cũng đã có năm bảy bài viết bằng tiếng Anh, Pháp, và Đức.
TTM. A! Cô quá khiêm nhường về khả năng tiếng Việt đấy. Viết tiếng Việt được như cô không phải là việc dễ làm đâu. Tính đến hôm nay cô đã có bao tác phẩm gồm những thể loại nào?
Jazzy Dạ Lam. Anh hỏi câu này làm em phải ngồi đực mặt ra….. đếm đấy 😀 Mà thiệt tình lại chẳng muốn đếm, vì không nghĩ số lượng có ý nghĩa gì cả. Thôi kệ, chỉ tính những bài đã được phát hành mà mọi người biết thì em có chừng mười mấy ca khúc gì đó.
Ngoài dòng nhạc blues, smooth jazz, bossanova, funk, r&b pop, neo-soul, chill-out, semi-classic, contemporary, world music xuất hiện trong debut album, em còn viết ca kịch (Aria “Solitude”), solo piece for piano, và nhạc….. “phản động” 😀 😀 😀
TTM. Đồng ý với cô là “số lượng (không) có ý nghĩa gì cả,” nhưng vì chưa được biết nhiều về tác phẩm của cô nên hỏi vậy thôi. Tôi quen biết một số người đã sáng tác cả trăm bài hát, nhưng nghe kỹ thì thấy ít quá. Con số tác phẩm cô cho biết có thể ít nhưng tôi lại cảm như nhiều về chất lượng và giá trị nghệ thuật. Xin cô cho độc giả biết các tác phẩm của cô chuyển đạt những ý tưởng gì?
Jazzy Dạ Lam. Hmm… Tình yêu đôi lứa, tình mẫu tử, tình nhân loại…., ui cha hổng biết gọi là gì nữa 😀 Có dạo vì bức xúc với tình hình chính trị xã hội VN, em phổ nhạc vào một đoản văn ngắn của anh Tuấn Khanh, rồi đặt tựa “Lời nguyền Bloody Mary”. Bài có mấy câu như vầy: “Con chữ tật nguyền như chính cuộc đời bạc bẽo. Những ý tưởng thơ mộng và tự do đã chết trong sợ hãi. Con chữ biết đau vì ai tự tay kết liễu những ăn năn. Tự động bóp nghẹt, tự cắt gọt mình, từ chối sự thật để vừa vặn trong chiếc quan tài kiểm duyệt”, với điệp khúc: “Bloody Mary, tự mở cửa địa ngục, nhìn thế gian bằng sự tăm tối trong trái tim loá mù… lời nguyền Bloody Mary, lời nguyền Bloody Mary….”. Hay năm ngoái, sân khấu chính trị thế giới có anh chàng hề to xác hết sức buồn cười, nên em viết bài giễu nhại thằng bé ễnh ương, to xác nhưng có bàn tay bé xíu, không ôm nổi quả bóng trong lòng tay…. 🙂
TTM. Xin cô cho biết vài tác phẩm tiêu biểu của mình và cho độc giả biết đôi điều về tiến trình sáng tác các ca khúc này, thí dụ như hoàn cảnh hay lý do cho mình cảm hứng để sáng tác các ca khúc này.
Jazzy Dạ Lam. Xin phép cho em kèm link bài Thôi hết còn gặp nhau, đăng trên trang Tiền Vệ, em có kể về những điều này nha anh.
https://tienve.org/home/music/viewMusic.do?action=viewArtwork&artworkId=12332
TTM. Tôi đã mở bài theo Link cô cho và rất đỗi ngạc nhiên khi biết cô phổ nhạc bài thơ của Phạm Công Thiện. Tôi chưa từng được nghe hay biết nhạc sĩ nào đã phổ thơ Phạm Công Thiện, thần tượng thời niên thiếu của tôi lúc còn ở quê xưa. Dĩ nhiên bây giờ tôi đang già nên không còn thần tượng nữa, nhưng vẫn quý mến và phục ông về cách sử dụng và sáng tạo chữ Việt. Ông cũng biết cách tự tạo ra nhiều huyền thoại đời mình. Tôi rất thích bài “Hiu Hắt Quê Hương” của ông.
Gió thổi đồi thu qua đồi thông
Mưa hạ ly hương nước ngược dòng
Tôi đau trong tiếng gà xơ xác
Một sớm bông hồng nở cửa đông
(Phạm Công Thiện)
Thế thì nhạc sĩ hay loại nhạc nào ảnh hưởng đến sáng tác của cô?
Jazzy Dạ Lam. Lúc bé, em mê nhất là nhạc của Johann Sebastian Bach. Giờ vẫn mê, nhưng có nhiều lựa chọn khác nữa nên ít nghe hơn. Nghe nhiều nên chắc bị Bach ảnh hưởng trong lối tư duy, còn về ý tưởng âm nhạc và nét nhạc thì chắc em bị… lai căng toàn phần, ảnh hưởng từ mọi thứ, từ đông sang tây, âu sang á, cổ điển thính phòng tới ca trù chèo cải lương ả đào và jazz rock pop. Ngoài ra, mấy ông cụ đội tóc giả như Chopin, Liszt, tới cận đại như Skrjabin, Ravel Rachmaninov.… cũng là những nhạc sĩ em yêu thích, nghe nhiều hồi nhỏ, ngấm quá lâu quá sâu nên thế nào cũng có bị ảnh hưởng.
TTM. Ca khúc của nhạc sĩ nào cô thích nhất và tại sao?
Jazzy Dạ Lam. Thích nhiều quá, nhưng bất chợt chỉ nhớ ra bài Vocalisé của Rachmaninov, chắc tại vì nó… không có lời 😀
TTM. Trả lời vậy là ỡm ờ đấy. Cô đã từng học nhạc ở đâu?
Jazzy Dạ Lam. Hồi nhỏ em học ở quốc gia âm nhạc Sài Gòn, rồi qua Moscow học tiếp piano cổ điển, rồi sau qua Đức học tiếp jazz piano.
TTM. Kỷ niệm đáng nhớ về những sinh hoạt văn nghệ hay trình diễn của mình.
Jazzy Dạ Lam. Một kỷ niệm vô cùng đáng nhớ trong những lần trình diễn đáng nhớ, là lần đi hát dạo tại một làng quê nhỏ ở South Tirol. Hôm đó ban nhạc chơi đủ loại từ jazz (My Funny Valentine, Angel Eyes) qua funk (Pick up the Pieces, Superstition) qua latin jazz (Agua De Beber, Mas Que Nada) rồi Pop (Alicia Keys, Laura Pausini) . Xong cái em hát Dạ Cổ Hoài Lang với Võng Đêm (cùng tiếng đàn violin của cô bạn thân Marlene Schuen, cũng là người hát cùng trong bài The Sign – Covid song). Lát sau có bà cô I-ta-lồ tới hỏi em hát tiếng gì nhạc gì mà hay vậy, làm bà nghe mà chảy nước mắt!
Một sinh hoạt văn nghệ vô cùng “quái” và tức cười, đó là khi em được mời thu âm luôn giùm cho Project Uncensored hai bài hát bằng tiếng….. Thái!!! Vì nhóm sản xuất sau ba tháng ròng rã không thể tìm đâu ra người hát cho phần tham dự của nước Thái Lan, bởi dân Thái ai cũng yêu quý và sùng kính Vua của họ, chẳng ai dám hát nhạc “phản động” phê phán nhà Vua. Ngay cả người sinh sống ở hải ngoại như Đức, Pháp, em đã liên lạc họ để thu âm nhưng rồi cuối cùng họ đều quyết định không tham gia. Thế là production team (người Brasil) mới nắm áo níu em hát giùm luôn cho họ, viện cớ “tiếng Việt tụi bây có khác gì tiếng Thái đâu!?! Làm eo hoài, hát giùm đi! Tao cùng đường rồi, mày không giúp là tụi tao chết chắc đó!”. Em cũng đã hết cách từ chối, cuối cùng cầm lòng không đặng, đành cắm đầu cắm cổ vô học phát âm tiếng Thái bằng…. Google Translate!!! hahaha. Rồi thu thử demo cho anh chàng ca sĩ bên Thái Lan để chàng chỉnh sửa lại cách phát âm cho smooth hơn. Tới lần thâu thử thứ hai chàng nói “super! super!”, thế là bỏ vô album đó luôn, xong rồi đó 😀
Còn kỷ niệm khác nữa cũng quái đến kinh hoàng bởi độ lì và điếc không sợ súng của em. Đó là lần nhận lời tham gia vào viết chung phần âm nhạc cho vở Kiều Musical, do anh Bùi Xuân Quang khởi xướng và viết kịch bản, phải soạn bằng tiếng Pháp, cho các nghệ sĩ Pháp trình diễn.
Lì và điếc không sợ súng ở chỗ nửa chữ tiếng Pháp em cũng không biết, mà cứ đem chữ rải như rắc lúa giống lên ruộng. Có chữ nào nhét vô câu được là nhét đại chữ đó, không cần biết âm đó là câm hay không, không biết chữ đó là chính hay phụ, không biết luôn trọng âm rớt vô đâu để xếp cho rơi vào đầu nhịp phách mạnh hay giữa nhịp phách yếu… và cũng chỉ học phát âm bằng Google Translate để ráng hát cái demo cho ca sĩ tây biết đường hát cho đúng nhịp đúng ý . Kết quả là Aria của Kiều rất được yêu thích. Còn bài Final của nhạc kịch thì em soạn rất công phu, nhưng vì hiệu quả âm thanh – do thiếu người chơi đàn và hát – không được tốt, cộng với giai điệu khá trúc trắc khó hát, nên cuối cùng không được chọn.
TTM. Nghề nghiệp chính và sinh hoạt thường ngày ra sao?
Jazzy Dạ Lam. Music writing, music arranging, music programming, music producing, and music teaching, nhưng thời covid nên phải ở nhà chăn hai con vịt 😀
TTM. Tôi hỏi thêm về tại sao cô lại chọn bút hiệu Jazzy Dạ Lam được không?
Jazzy Dạ Lam. Dạ cái tên Dạ Lam có lịch sử khá… tức cười. số là khi xưa em có một người rất thân tên Lam, khi nói chuyện em hay “dạ Lam!” với người đó. Một bữa nói chuyện gì đó về ca sĩ Thanh Lam, em hỏi him có biết cô ấy không, he nói “nope, anh chỉ biết Dạ Lam” và thế là chết luôn cái tên Jazzy Dạ Lam! Dĩ nhiên, ngoài ra còn vì em hay làm việc khuya. Về đêm, không gian tĩnh lặng, dễ tập trung cho việc sáng tác hơn, nên mới có Màu Đêm, Khúc Đêm, Dạo Khúc, Trăng và Em, Võng Đêm, Vạt Trăng…. toàn là đen thui tối thùi 🙂 Do vậy cái tên cũng mang màu sắc thứ âm nhạc chủ đạo trong album đầu tiên đó: jazzy de nuit, hay jazzy dạ lam. Anh nghe ra chất “đêm xanh” trong âm nhạc của em, vì đó cũng là màu sắc em hướng tới khi sáng tác những bài hát trong album M&Y, miên man, mênh mang, hút sâu, xanh thẳm…
TTM. Tôi đọc thông tin trên báo, nghe đâu có nhà làm phim tài liệu bên Đức đang thực hiện một phim tài liệu về cô. Xin cho biết thêm vài chi tiết nhá.
Jazzy Dạ Lam. Phim tài liệu “Talking my Generation” không phải là về em đâu. Em chỉ là một nhân vật trong số ba nhân vật được đạo diễn và biên kịch Anh Dre Trieu đề cập tới, đại diện cho một số ít nghệ sĩ gốc Việt sinh sống tại Đức. Bộ phim tìm cách rọi chiếu vào nội tâm các bạn trẻ Đức gốc Việt, thuộc thế hệ thứ hai lớn lên tại đây, các vấn đề gia đình và xã hội, phụ nữ và nhân quyền, truyền thống và bản sắc dân tộc, khoảng cách giữa các thế hệ người di dân, sự lạc lõng hay căn tính người lưu vong….v.v..
Em là ngoại lệ vì không còn trẻ 🙂 Ngoài ra phim có giới thiệu một chút sinh hoạt nghệ thuật cũng như sự hội nhập vào xã hội Đức của ba nhân vật này.
Thực ra, nói “đại diện” là sai, vì số đông những nghệ sĩ gốc Việt ở Đức hiện đang không sống được bằng nghề, em cũng rất chật vật, nhưng sự khác biệt giữa ba nhân vật trong phim với số đông kia, là yếu tố nghệ thuật có cơ hội len lỏi hơn vào “dòng chính”. Ví như số đông nghệ sĩ Việt Nam bên Mỹ, họ sống được bằng nghề, nhưng chỉ dựa vào cộng đồng VN ở hải ngoại, chứ không hoà nhập được vào “dòng chính” của Mỹ. Nghĩa là có khá nhiều nghệ sĩ gốc Việt ở Đức, vẫn duy trì sinh hoạt văn nghệ, nhưng chỉ giới hạn trong cộng đồng Việt Nam, và vì cộng đồng Việt bên đây quá bé so với bên Mỹ, nên không thể sống được bằng nghề, mà thường phải mưu sinh bằng một nghề nghiệp khác. Còn em và hai bạn trẻ kia (một bạn là stand-up comedian, bạn kia là visual performing artist) tuy cũng phải mưu sinh bằng những job khác nhau, em thì dạy đàn, dạy nhạc…. biểu diễn và sản xuất âm nhạc lai rai, nhưng những gì tụi em làm, có hơi khác với các sinh hoạt văn nghệ thường gặp trong cộng đồng Việt Nam.
TTM. Rất cảm ơn nhạc sĩ Jazzy Dạ Lam, dù duyên văn nghệ cho chúng ta trao đổi qua điện thư, cô vẫn bỏ thời giờ trả lời câu hỏi tôi đưa ra. Chúc cô mọi sự tốt lành và tiếp tục đóng góp cho đời những tác phẩm từ tim óc nghệ thuật của mình.
Âm nhạc, cách riêng ca khúc, là phần quan trọng của các nền văn hoá trên thế giới. Ca từ và giai điệu các ca khúc phản ánh tâm lý xã hội của từng giai đoạn lịch sử. Các cộng đồng người Việt ở Hải Ngoại là những xã hội thu nhỏ đang giao lưu và hội nhập vào những nền văn hoá bản xứ. Nhạc sĩ sáng tác ca khúc ghi nhận tình cảm và tư duy của người Việt sống quanh mình. Một ca khúc rất riêng tư vừa nghe thoáng qua tưởng chỉ là tâm tình riêng của nhạc sĩ, nhưng nghe kỹ, rồi đặt mình vào không gian nơi ca khúc ra đời, ta sẽ cảm nghiệm được thông điệp thời đại ẩn sau giai điệu và lời ca. Văn hoá truyền thống Việt là nền móng cho văn hoá Việt hải ngoại, nhưng người Việt hải ngoại phải đi xa hơn những gì ta hấp thụ được từ “ngôi làng văn hoá truyền thống” để kiến tạo nên văn hoá mới thích hợp với hoàn cảnh và môi trường mới. Tôi mong rằng các nhạc sĩ sáng tác ca khúc ở hải ngoại trau dồi thêm học thuật âm nhạc để dần dà các ca khúc Việt hải ngoại sẽ làm giầu cho các nền văn hoá bản xứ và văn hoá Việt ở Việt Nam.
Văn hoá Việt tiếp tục nẩy nở trên những miền đất lạ vì chúng ta vẫn có được những tài năng như Jazzy Dạ Lam. Tôi tin chắc rằng nếu cô tiếp tục con đường sáng tác và sáng tạo, chỗ đứng của cô trên dòng nhạc sử Việt rất tốt đẹp. Trong tương lai gần, sẽ có sinh viên Việt, gốc Việt, hay thuộc những sắc dân khác nghiên cứu về âm nhạc Việt ở Hải Ngoại, họ sẽ phải tìm đến các tác phẩm của Jazzy Dạ Lam. Các ca khúc của cô cũng sẽ được dùng tới trong trường nhạc làm bài mẫu, nếu những nhà giáo dục về âm nhạc Việt Nam có tầm nhìn rộng và không nghi kỵ. Mong được đón nhận những sáng tác mới của Jazzy.
Sau đây là vài ca khúc trong số các ca khúc đã nhắc tới của nhạc sĩ Jazzy Dạ Lam.
Very Soon – Lát nữa thôi
https://www.youtube.com/watch?v=KLv4xPAU_aI
Nhóc ễnh ươn(g) – “don’t ask tough question”
https://www.youtube.com/watch?v=g1wR20JWwwI
Lời nguyền Bloody Mary (live recording từ buổi trình diễn trong tour “Nhạc Mộc Khôi Lam – Nghệ thuật tự do, yêu thương tự nguyện” cùng ca nhạc sĩ Mai Khôi tại Châu Âu năm 2016)
https://app.box.com/s/ockrz8tfdn71dfh3cm2r190qd09w38ol
Solo piano – A Song 4 U
https://app.box.com/s/3pupobw2s409l2gnwmji7yfpskne9uko
Thai Song – Infographic (from “The Uncensored Project”)
https://app.box.com/s/jse4xt74qo6yivdyqzwdx21xdycqas94
Trần Thu Miên

Be the first to comment