Ở đời này chuyện gì xảy ra quanh ta hay với ta cũng đều có căn cơ hay duyên nợ bởi vì vạn sự tuỳ duyên. Những liên hệ ta có với bạn bè là do duyên mà được. Khi ta gặp một người chưa quen mà có duyên làm bạn thì chắc chắn trước sau ta sẽ gặp lại người ấy. Cũng như Nguyễn Du đã viết:
Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không?
Tôi có duyên gặp nhà văn Lã Mộng Thường trong tang lễ bà cụ mẹ chồng cô em họ tại một giáo đường Việt Nam ven đô Dallas, Texas. Đứng cuối nhà thờ chờ giờ khai mạc lễ, cầm quyển chương trình đọc qua và thấy trong danh sách linh mục đồng tế tang lễ có một vị đến từ Biloxi, Mississippi. Chạy đến gặp chú em rể hỏi xem vị linh mục này là ai, chú em dẫn tôi vào phòng các linh mục sửa soạn khăn áo trước giờ lễ và chỉ cho tôi người đến từ Biloxi.
“Chào cha! Ngài đến từ Biloxi?” Tôi hỏi và tự giới thiệu.
“Đúng, có thích đọc truyện không?” Ông thản nhiên hỏi.
“Có chứ.” Tôi trả lời và hơi ngạc nhiên về câu hỏi sơ giao bất ngờ.
“Sau lễ chờ tôi nhá. Tôi sẽ tặng ông quyển sách.” Ông vừa nói vừa quàng khăn tế lễ lên cổ rồi đứng vào hàng các vị linh mục đồng tế.
Tôi rời phòng chuẩn bị áo lễ với sự tò mò muốn biết thêm về linh mục này. Sở dĩ tôi tìm gặp ông vì ông đến từ thành phố tôi đã lang thang những ngày đầu đời tỵ nạn và nhiều đêm nằm ngủ một mình bên bờ vịnh Gulf of Mexico. Tôi có tính là khi gặp người lạ từ những nơi mình đã tạm cư ở Hoa Kỳ, tôi đều tìm cách hỏi chuyện để được nghe họ nhắc tên những con đường hay địa danh mình đã có mặt. Sau lễ an táng, tôi đứng chờ để được nhận sách truyện và được Tang Gia mời về nhà họp mặt với gia đình nên được dịp ngồi uống rượu với tác giả của tác phẩm “Mây Bay Về Ngàn,” và sự liên lạc giữa chúng tôi bắt đầu từ đấy.
Lã Mộng Thường là bút hiệu của nhà văn, nhạc sĩ linh mục Công Giáo. Ông đã cho ra đời 9 tác phẩm văn và rất nhiều ca khúc. Ông viết về văn hoá, tôn giáo, và cả tình yêu lãng đãng trong ca từ của nhiều ca khúc. Hôm nay mời thân hữu và độc giả tham dự cuộc mạn đàm với Lã Mộng Thường.
TTM (Trần Thu Miên). Chào nhà văn Lã Mộng Thường. Rất tiếc chúng ta đang phải chui nhủi né tránh nhau vì đại dịch oái oăm này. Đáng lý phải mang chai rượu vang ngon và bình trà xanh thơm tinh khiết mời ngài để truyện trò dăm ba điều văn nghệ với ngài. Thôi đành chờ, và nếu chúng ta còn sống sót sau đại dịch, chắc chắn sẽ hạnh ngộ. Mong ngài tự nhiên và thoải mái chia sẻ với độc gỉa và thân hữu về sinh hoạt văn học nghệ thuật.
LMT (Lã Mộng Thường). Xin cảm ơn ông Trần Thu Miên, đã có ý mời tôi tham gia cuộc mạn đàm ảo đúng vào thời điểm khi đôi chân tôi không cho phép đi lại hay đứng hoặc nằm mà chỉ ngồi. Ngồi không, lên net coi youtube mãi cũng chán bởi không muốn bị trở thành thùng rác cho thiên hạ muốn quăng bất cứ gì vô thì quăng; nghe tin tức tất nhiên tức mình vì tin không mang lại điều mình mong ước. Thế nên, có được gì để làm, không phải đối diện với nỗi “cô độc” thì lại là niềm hạnh phúc chẳng ngờ.
TTM. Xin ngài cho độc giả biết là bắt đầu viết từ bao giờ?
LMT. Tôi không nhớ rõ vào thời điểm nào cho lần đầu viết bài tóm tắt bài tu đức của đức cha Nguyễn Văn Thuận, sau đó được đăng trên bích báo của chủng viện Lâm Bích. Dĩ nhiên đã xưa lắm rồi, khi mới được mặc chiếc áo dòng nơi chủng viện, hình như vào năm 1972 thì phải. Mãi sau này, 1983 mới có cơ hội biên khảo, dùng Tục Ngữ, Ca Dao viết về những nhận định, quan niệm của tiền nhân dân Việt, và sau này gom lại thành sách với tựa đề “Hương Hoa Dân Việt” được nhà xuất bản Xuân Thu, CA, USA, in và phát hành vào năm 1993.
TTM. Biên khảo về Tục Ngữ ca dao là việc làm rất đáng được ca ngợi. Tôi nghĩ chúng ta vẫn còn cần nhiều học giả chuyên tâm nghiên cứu về bộ môn này. Văn chương truyền khẩu và tục ngữ ca dao không phải là văn chương bình dân như nhiều người hiểu lầm, nhưng là những khuôn vàng thước ngọc, tinh hoa của tư tưởng đã được gạn lọc để dễ nghe, dễ nhớ và dễ truyền tụng trong dân gian, ngay cả trong thời đại văn minh siêu truyền thông của thế kỷ 21 này. Thưa ngài chúng ta được học rằng muốn viết thì phải đọc. Ngài có thích đọc không?
LMT. Tôi thích đọc, đọc đủ loại sách; bởi nhiều khi không có sách để đọc thì may ra vớ được cuốn nào đọc cuốn đó. Có những cuốn cho tới thời điểm này tôi thấy thật vô lý, tự hỏi tại sao tôi lại đọc. Câu trả lời tất nhiên chỉ là, vào thời điểm đó tôi đã không có bất cứ cuốn sách nào khác để đọc. Chẳng hạn, Cách Làm Đẹp của Phụ Nữ, hoặc, sách xanh, sách tím, Tuổi Hoa, v.v… dẫu tuổi tôi đã lớn.
TTM. Điều gì đã thôi thúc ngài viết?
LMT. Năm tôi ở nhà tập SVD (Society Verbi Divini), có thời giờ hồi tưởng thời đã qua, tiện tay ghi lại thành truyện. Động lực này có lẽ bắt nguồn từ phương cách để tập viên tự mình nhận thức và lựa chọn quyết định lối sống của Ignatius of Loyola, thay vì đào tạo, gò ép con người theo khuôn mẫu nào đó. Và thế là quen tay, viết truyện. Tất nhiên, viết truyện cần phải thêm mắm, pha muối cho thuận tình, hợp lý, nếu nói đánh lừa độc giả cũng không sai, hoặc kiến tạo thì chắc đúng. Hơn nữa, nói rằng quen tay biến thành thói quen hoặc ngón giải trí rồi sau thành nghiệp cũng không gì quá đáng. Cho tới khi viết xong cuốn “Câu Hỏi Lãng Quên” năm 1997, tôi mới nhận ra viết thì phải lách và không nên viết hết tư tưởng, nhận định, chỉ nên viết đến độ nào đó và dành phần cho độc giả đưa ra kết luận; bởi cùng một vấn đề, mỗi độc giả tùy thuộc cá tính và phẩm cách khác nhau sẽ có những nhận thức hoặc nhận định khác nhau.
TTM. Câu hỏi này có lẽ thừa, nhưng cứ hỏi ngài nhá. Tại sao viết và viết để làm gì?
LMT. Cho đến lúc gõ những hàng chữ này, tôi nhận thấy tôi bị viết và phải viết; nên viết lách đối với tôi hình như là một nhu cầu; chỉ tốn tiền in ấn và tốn công sức suy nghĩ, gõ phím computer, dẫu giúp tôi suy nghĩ, cân nhắc chín chắn hơn về những vấn đề đang đối diện đồng thời cũng giúp tôi nhận thức về vấn đề đó rõ ràng hơn. Tuy nhiên, ảnh hưởng của viết lách nhiều lúc khiến tôi phải tự chế nhiều hơn, khi nghe thấy ai đó được sinh ở làng pháo, nổ tào lao thiên tướng về điều hoặc nhận thức họ chỉ mới kinh nghiệm chứ chưa quen hoặc chưa kịp suy tư.
TTM. Tính đến hôm nay đã cho in mấy tác phẩm?
LMT. Đã in ra chín cuốn, ngoài bảy cuốn nhắc tới phía trên, thêm cuốn Mây Bay Về Ngàn, 2019, và cuốn Khai Phá Tin Mừng, 2021.
TTM. Chúc mừng ngài. Đấy là con số tác phẩm đáng kể. Giới linh mục Công Giáo Việt Nam có rất nhiều vị bằng cấp học vấn đầy người, nhưng hình như nhiều vị học cao nhưng lại không tiêu hoá điều thu thập sau khi nhận được văn bằng để đóng góp thêm vào kho tàng văn học nghệ thuật và tư tưởng Công Giáo. Các tác phẩm của ngài chuyển đạt những ý tưởng hay vấn đề gì?
LMT. Nói hết ra thì dài dòng, nhưng vì ông hỏi nên tôi sẽ tóm tắt chủ đề của các tác phẩm tôi đã xuất bản như sau:
Tiếng Nói Con Tim – Tập truyện ngắn, bao gồm: Con Bà Sơ, Dõi Dấu Chim Bay, Hỏi Người Có Nhớ, Mảnh Hương Xưa, Con Khỉ Con, Ngày Xưa, Niệm Tình, Tiếng Nói Con Tim, Viễn Ảnh, Với Lại Giấc Mơ, Chồng Tôi, Bão Lòng, và Như Thuở Ban Đầu. Đại khái viết về tâm tình, nhận thức về tình yêu của một con người nên được đặt lại vấn đề cho rõ ràng, chẳng nên lẫn lộn với ham muốn nhất thời.
Linh Mục Người Là Ai I – Truyện dài – Nhiệm vụ và tâm tình mục vụ của một linh mục.
Hương Hoa Dân Việt – Biên Khảo – Dùng Tục Ngữ, Ca Dao minh chứng quan điểm của tiền nhân dân Việt, bao gồm, Tục Ngữ, Ca Dao Nơi Tâm Tình Người Việt – Đức Độ, Nền Tảng Giá Trị Con Người – Nhân Nghĩa – Danh Dự Con Người – Sống Liên Đới – Ăn Nói – Xử Thế – Đạo Bình Thường – Nữ Giới – Nữ Giới Việt Nam – Cơ Cấu Gia Đình – Danh Dự và Vai Trò Gia Đình – Tình Nghĩa Vợ Chồng – Con Cái – Anh Em Họ Hàng – Cần Mẫn và Cần Kiệm – Tướng Diện – Tình Yêu Quê Hương – Tình Cảm Qua Ca Dao (Tán Tỉnh, Chung Thủy, Nhung Nhớ, Tâm Trạng Chàng, Tâm Trạng Nàng, Trắc Trở, Tình Lỡ) – Niềm Tin Qua Ca Dao – Đặc Tính Dân Việt – Sự Thăm Hỏi – Tâm Tình Biết Ơn – Sống Hòa Hợp – Tâm Tình Tự Trọng – Lòng Chân Thành – Tâm Tình Khó Nghèo – Mỗi Người Việt là Một Thi Nhân – Đám Xá.
Linh Mục Người Là Ai II – Truyện dài – Linh mục nơi vai trò lãnh đạo.
Ước Vọng Mùa Xuân – Tập truyện ngắn – Bao gồm, Tình Ơi Vỗ Cánh, Dậy Nét Xuân Hồng, Con Sâu, Giàn Mướp, Ước Vọng Mùa Xuân, Niềm Vui Giáng Sinh, Tiếng Hát Lặng Câm, Hương Tình, Ai Người Tri Âm. Đại khái nêu lên ước mơ của một người dân bình thường sau thời quốc gia khổ ải.
Mảnh Vụn Suy Tư – Tạp ghi những nhận thức cá nhận được gợi lên do những vấn đề hoặc sự việc, và sự thể bao gồm: Ăn Nhậu, Những Cái Nhìn Khác Biệt, Cá Không Ăn Muối, Căn Bệnh Bất Trị, Có Tật Giật Mình, Vấn Đề Danh Xưng, Đi Nước Lào Ăn Mắm Ngóe, Những Cặp Kiếng Màu, Nhập Gia, Lý Luận Trẻ Con, Những Chiếc Khăn Tay, Những Sợi Tóc Bạc, Nô Lệ, Đàn Ông Có Nên Rửa Chén? Suy Tư, Thái Độ và Tâm Trạng, Chúng Tôi Sẽ Ra Sao? Nghĩ Gì Về Giới Trẻ, Chúng Tôi Tuổi Trẻ, Nghĩ Gì Về Gom Giới Trẻ vào Một Đoàn Thể, Vết Thương Tuổi Trẻ, Tự Do, Phép Lạ, Sống Đơn Giản, Mảnh Vụn Suy Tư, Chọn Bạn Mà Chơi, Vai Trò, Đường Ta Ta Cứ Đi, Thực Trạng Lãng Quên, Thực Tại và Lương Tâm, Nét Nhìn Sơ Lược về Thánh, Chứng Tá Đức Tin, Chết Điều Kiện Chuyển Tiếp, Thánh Nữ, Tử Đạo Trong Cuộc Đời, Đức Tin và Tử Đạo, Phỏng Khi Con Người Trở Lại, Hồng Ân và Con Người, Lòng Tin.
Câu Hỏi Lãng Quên – Truyện dài – Đặt vấn đề về sự hiểu biết Kinh Thánh, đặc biệt Phúc Âm theo nghĩa từ chương bắt nguồn từ câu, “Tuy vậy, khi Con Người đến sẽ còn gặp được lòng tin trên mật đất nữa không?” (Lc. 18:8. Bản dịch N. T. Thuấn). Suy tư dựa theo, “Đừng dập tắt Thần Khí! Chớ khinh thị các ơn tiên tri! Nhưng nghiệm xét mọi sụ; điều gì lành hãy giữ lấy. Hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào” (1Thes. 5:19-21).
Mây Bay Về Ngàn – Truyện dài tổng hợp hai hình thức đối thoại và biên khảo viết về những nguyên tắc thực hành chính yếu để nghiệm chứng về Phật học, Ấn học, Lão học, Phúc Âm.
Khai Phá Tin Mừng – Áp dụng nguyên tắc “Nghiệm xét mọi sự” (1Thes. 5:20) từ St. Paul nơi tâm thức một người trong hành trình nhận thức Phúc Âm hầu nhận ra Tin Mừng Nước Trời. Mục đích chính khuyến khích độc giả nhận biết và thực hành định tâm nơi lãnh vực tâm linh. Mọi người đều sử dụng định tâm, hành thiền, nhưng không để ý nhận ra định tâm hoặc hành thiền là gì nơi cuộc sống; đồng thời thường cho rằng chỉ hiểu biết là đủ, đặc biệt nơi tôn giáo. Thực thể minh chứng, tôn giáo không dẫn dắt con người tới đâu mà chỉ là phương tiện cho con người thăng tiến nơi hành trình tâm linh trong khi đạo học không được viết để giải thích vì giải thích chính là cướp cơ hội nghiệm chứng của hành giả. Đạo học được viết để thực hành; không thực hành, không nghiệm chứng được gọi “Vô minh.”
TTM. Trong số các tác phẩm kể trên, tác phẩm nào tốn giờ nhất?
LMT. Chính là quyển Mây Bay Về Ngàn. Chủ đích viết về nhận thức thực hành nghiệm chứng đạo học. Được viết dưới hình thức đối thoại cho đỡ nhàm chán hầu thách đố và khuyến khích thực hành nghiệm chứng. Thế nên, nếu không thực hành nghiệm chứng sẽ không lợi ích gì. Hơn nữa, vì để tránh nhàm chán bởi quá nhiều chi tiết thực nghiệm khuyến khích thực hành nên viết theo lối truyện dài chẳng khác gì kiếm hiệp do đó phải thêm mắm, phụ muối thành ra dài dòng và tốn thời gian. Đàng khác, Phúc Âm có những câu nói nghịch thường nếu hiểu theo nghĩa tử chương cần thời gian nghiệm chứng nên cuốn này mất hai mươi hai năm mới được in ra dẫu chỉ được đọc lại và sửa chữa ba lần.
TTM. Thật ra tôi nhận thấy rằng tác phẩm Mây Bay Về Ngàn của ngài là tác phẩm công phu nhưng khó đọc. Dù ngài dựng truyện theo kiểu bằng hữu ngồi bên bàn nhậu hay bữa cơm đấu láo với nhau về các vấn đề xoay quanh Phúc Âm, nhưng ngài đưa ra quá nhiều vấn đề và vấn nạn khiến người đọc có thể bị hoả mù. Xin ngài chia sẻ với độc giả về tác giả hay tác phẩm nào (ngoài tôn giáo) ảnh hưởng đến đời mình trên mọi phương diện?
LMT. Không thể nói tác giả hoặc tác phẩm nào ảnh hưởng đến cuộc đời mình trên mọi phương diện mà chỉ có thể nói câu nào. Hai câu nói thách đố tâm trí và thay đổi nhận thức của tôi đó là, “Người biết không nói, kẻ nói không biết” nơi cuốn Lão Học Tinh Hoa do cụ Thu Giang Nguyễn Duy Cần biên soạn. Câu này được cụ in ngay trang đầu của cuốn sách, “Tri giả bất ngôn; ngôn giả bất tri” và được cụ dịch ngay phía dưới thành “Người biết không nói, người nói không biết;” nó cứ luẩn quẩn trong tâm trí tôi suốt mười một năm trời. Điều này đã thách đố tôi giải sao cho hợp lý hợp tình, sao cho có thể chấp nhận được. Tôi gặp nó năm 1983 khi mua cuốn LHTH mà mãi tới năm 1994 mới nhận biết nó nói gì và gốc gác nó từ đâu ra. Thành thực xin lỗi quý độc giả, tôi không muốn cướp cơ hội nghiệm chứng của bất cứ ai; vì đó là trọng tội nơi hành trình tâm linh, hành trình thức ngộ, nên không dám giải thích; xin quý vị thông cảm. Chính lúc viết những dòng chữ này, tôi mới nhận thực được tại sao cụ Nguyễn Duy Cần chỉ dịch chứ không giải thích dẫu nhiều câu nơi cuốn Lão Học Tinh Hoa cụ giải thích theo nghĩa thế tục hoặc ám định nhưng từ chương.
TTM. Đấy là tư tưởng trong Lão Học, còn trên phương diện là linh mục Công Giáo, ngài thấy câu nào trong Phúc Âm có công sức chiếm đoạt suy tư của mình thật mãnh liệt không?
LMT. Một câu khác nơi Phúc Âm thách đố tâm tư tôi là câu, “Tuy vậy, khi Con Người đến sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa không?” (Lc. 18:8). Câu này liên hệ đến Tin Mừng Nước Trời nơi Phúc Âm trong khi không có bất cứ định nghĩa nào về Tin Mừng nơi cuốn Kinh Thánh dầu cho tôi có mười bản dịch Kinh Thánh khác nhau. Thế rồi sau này lại nghe nói đức tin Phật giáo, đức tin… giáo nào đó trong khi tôi không thể chấp nhận định nghĩa mù mờ về đức tin nơi thư Hipri, “Tin là cách chiếm hữu những điều còn trong hy vọng, là phương nhận thức các thực tại người ta không thấy” (Hr. 11:1; Bản dịch NTThuấn). Câu Lc. 18:8 hình như khiến tôi thao thức gần mười năm tới khi nhận ra Tin Mừng Nước Trời là gì mới giải đáp được.
Nói chung, có lẽ tại tôi thích đọc sách, thích bị thách đố, hay bởi cá tính ngang bướng, khó chấp nhận trở thành thùng rác cho bất cứ ai, bất cứ sách vở nào, hoặc lời giảng dạy quăng vô và vội nuốt đi nếu nó không hợp tình hợp lý nên bị phiền hà với những câu nói nơi đạo học chăng. Cũng có thể sự ngang bướng này chính lại là hồng ân giúp tôi đam mê vùng vẫy với những sách vở đạo học. Tôi muốn nói sách vở đạo học chứ không phải tôn giáo. Xét thế, không có cuốn sách hoặc tác giả nào gây hứng khởi cũng như ảnh hưởng đến cuộc đời tôi. Thực ra, ai đó chỉ cần tự ngộ một câu ba trợn nào đó nơi đạo học, mọi vấn đề tâm linh sẽ được mở toang ra. Đã không tự ngộ được câu nào thì vẫn chỉ đeo đuổi tội vô minh như Đạt Ma sư tổ đã nói, hoặc theo Phúc Âm thì mắc tội phạm đến Thánh Thần, sẽ chẳng bao giờ được tha (Mt. 12:31).
TTM. Hiện nay ngài đang đọc gì?
LMT. Tôi đang đọc cuốn I Heard God Laugh, tác giả Matthew Kell. Cuốn này bao gồm những bài viết ngắn nói về diễn trình cầu nguyện của một người theo lối tự thuật. Tôi mới đọc tới bài “The First Surrender.” Đọc cho vui nhưng cảm thấy thật nản vì thấy tác giả vẫn còn khơi khơi ôm ấp quan niệm thế tục “Nói chuyện với Chúa” chưa thoát khỏi được. Nói cho đúng, theo nhận thức của tác giả, Chúa vẫn còn ở phía ngoài, vẫn còn cái tôi – ngài. Điều này minh chứng tác giả vẫn chưa biết Tin Mừng đức Giê su rao giảng là gì. Tất nhiên, tôi không để mình biến thành thùng rác là cái chắc.
TTM. Ngoài viết văn và biên khảo ngài còn sáng tác ca khúc. Xin cho biết bắt đầu viết ca khúc từ thuở nào?
LMT. Bản nhạc đầu tiên tôi viết năm 1970, “Xin Đừng Coi Tôi Như Kẻ Lạ” nhưng không dám hòa âm vì không biết cách nào áp dụng luật chuyển âm. Tôi tự thực tập “Classic guitar” khi học năm thứ nhất Đại Học Khoa Học tại Sài gòn với cuốn F. Carulli. Ai cũng biết, luật chuyển âm là 1-4-5 nhưng áp dụng luật này thế nào nơi diễn trình hòa âm một bản nhạc thì những người tôi hỏi không trả lời được. Bây giờ người ta dùng 1-2-4-5 nhưng sao áp dụng vào chuyển âm nơi hòa âm một bản nhạc thì cũng may ra ít người biết. Tôi hay bị cảm thấy xấu hổ khi không giải thích được những gì mình thực hiện. 30 năm sau, mãi cho tới năm 2000 tôi mới dám hòa âm bản nhạc này; đồng thời viết nhạc. Nhưng phiền một nỗi, có lần, khi tôi hý hửng bỏ bản nhạc vừa viết xong lên net, gồm có bản nhạc, “Chút Tình” tôi hát, với nhạc do chính mình hòa âm, tôi bị một người, xin dấu nick, viết với những lời lẽ không ra gì, chửi suốt hơn tháng trời, ngày nào họ cũng viết thậm tệ về tôi. Lý do, câu cuối cùng được viết, “Bao giờ gọi tiếng mình ơi!” Người đó cho rằng bởi tôi là linh mục không được viết như thế. Tôi biết lý do tại sao nhưng không trả lời. Ôi một tháng bực mình, không “dám” dây miệng nhưng lại cứ tò mò đọc những hàng chữ phỉ báng mình. Ông biết rằng hơn 200 năm trước điều Nguyễn Du viết “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay,” vẫn đúng với tâm trạng con người ngày nay. Cụ được chiêm ngưỡng đâu phải chỉ là văn chương. Bởi đó tôi kiếm thơ phổ nhạc, ai có ném đá thì ném thi sĩ, tôi đứng ngoài ngó chơi. Có người email nói tôi nên thuê ca sĩ hát cho nhạc được phổ biến nhưng tôi không có số viết văn, viết nhạc kiếm tiền; do đó chẳng dám thuê ai bởi có lẽ tôi hơi khó tính; mặc dầu giọng hát bắc kỳ của tôi chẳng ra gì, nhưng đụng phải “ca sĩ” không biết nhịp thì đã không triển dương, coi chừng lại chỉ thêm bực mình.
TTM. Tôi nghĩ người chửi ngài là linh mục mà viết nhạc tình chưa được khai ngộ. Nếu người ấy thật sự tin rằng Thiên Chúa là tình yêu thì đương nhiên phải nghiệm chứng được Thiên Chúa trong các bài tình ca hay vần thơ ca ngợi tình yêu. Học nhạc ở đâu và với ai?
LMT. Tôi viết nhạc, tự hòa âm, làm từ A đến Z, đôi khi nổi hứng dù hai hoặc ba giờ sáng cũng bật máy lên hát rồi thâu, rồi bỏ lên trinhnu.net. Lúc đó đã mệt phờ thì mọi người đều biết giọng yến oanh cũng trở nên tuyệt vời thế nào. Đàng khác, phổ nhạc từ thơ mà thi sĩ thường thì không để ý hoặc không biết gì về nhạc thì sao mà nói đến chuyện về chủ đề hay tớ đề gì. Tôi tự học nhạc, làm nhạc bằng program, không “chơi” nhạc hoặc “oánh” đàn; đàn nào cũng không “chơi!” Mỗi bản nhạc muốn bỏ lên net tôi phải dùng 6 phương trình điện toán, Encore, Band in a Box, Cakewalk 9, Nuendo 3, Pdf, và Photoshop 7. Kỳ này, Window 10 không chấp nhận Nuendo 3, tôi đã có Presonus nhưng chưa có giờ mò mẫm, thực tập, nên tạm đình chỉ bỏ lên net.
TTM. Nếu được xin ngài chia sẻ đôi điều về mình kể từ tuổi thơ ấu đến hôm nay.
LMT. Tên cúng cơm của tôi là Trần Đoàn. Đam mê, tuyệt vời đam mê; khi làm bất cứ chuyện gì, hoặc đọc cuốn sách thích ý, hay viết văn, đôi khi lên net gặp bài thơ có ý nghĩa đem phổ nhạc khoảng 1 hoặc 2 giờ sáng thì khi nào xong mới thôi. Bản nhạc midi đầu tiên, nếu không lầm, tôi phải tiêu hao gần 50 tiếng. Làm xong, người bạn phán, “Tất cả chỉ toàn âm thanh piano!” Thế là tôi lại phải mò mẫm cách nào để phối âm. Nay thì cỡ bốn tiếng hơn kém cho một bài thơ phổ thành nhạc và hòa âm. Chính lúc này, 10 giờ 32 đêm, vẫn chưa nấu ăn chiều vì còn đang gõ phím computer.
TTM. Đam mê sáng tác quên cả thời giờ là một hạnh phúc đấy. Không phải ai cũng có được đam mê tốt đẹp như vậy đâu. Tại sao ngài lại chọn bút hiệu Lã Mộng Thường?
LMT. Thoạt tiên, tôi lấy nhiều bút hiệu nhưng tính chất lãng đãng, lên site người quen đăng đôi câu thơ, lời lẽ một ý đôi ba tứ khiến kẻ thưởng lãm động lòng nọ kia, nên quyết định chỉ dùng một nick làm chiếc dây cương cho con ngựa tâm tưởng bất kham tránh xung bậy phá bạ. Thuở ấy, tôi định lấy bút hiệu mang nghĩa ước mơ bình thường; “Ai nhất thì tôi thứ nhì; ai mà nhất nữa tôi thì thứ ba;” vì nhận thức rõ “Thiên hạ nhân, thiên hạ tài,” lại mang tâm trạng cần biết lễ độ cuộc đời; kèm theo mấy người quen thưa bẩm trên net nên tôi lấy bút hiệu “Mộng Thường.” Đồng thời để tránh bị chọc chạch thành “Quỉ vô thường” do đó thêm vào chữ “Lã” có nghĩa chẳng là gì. Ai ngờ đụng chạm lung tung; thiên hạ vẫn gán cho thành con cháu Lã Bất Vi, lại đụng thêm bài hát “Mộng Thường,” tên con gái. Nhưng lỡ rồi, đành cứ để nó vậy, ai nghĩ sao, cũng chỉ là bút hiệu.
TTM. Từ nãy đến giờ nghe ngài tâm sự, tôi nghĩ nếu ngài dùng bút hiệu “Lã Thường Mộng” cũng hay đấy vì sáng tác ca khúc đôi khi cần nhiều mơ mộng. Nhưng linh mục mà mơ mộng nhiều dễ bị đời chê bai. Bây giờ ngài cho phép tôi hỏi ngài về kinh nghiệm vui buồn trong đời vì các hồi ức buồn vui cho ta nguồn cơ để viết văn, làm thơ, hay soạn ca khúc. Ngài còn nhớ kinh nghiệm nào rất vui trong đời không?
LMT. Khi vô tình nghiệm được câu “Người nói không biết, kẻ biết không nói.”
TTM. Câu trả lời ấy nghe như câu trả lời của người tìm kiếm nghiệm chứng khai ngộ cho bế tắc về tư tưởng, nhất là về đức tin tôn giáo. Ngài có kinh nghiệm nào bi đát đến nỗi làm tan tác lòng mình chưa?
LMT. Vào năm 1978, cả nước lâm vào tình trạng đói kém, nhiều gia đình có bo-bo ăn hãy còn là may mắn. Nơi tôi ở, kỳ đi chặt cây bán làm nhà kinh tế mới, có gia đình hai vợ chồng và ba cháu nhỏ, ăn tối bằng những đọt cây “Cứt lợn;” sau đó tôi trở về quê cũ, muốn đi làm thuê kiếm miếng cơm ăn nhưng không ai “dám thuê” vì cả làng và những xứ đạo lân cận đều biết tôi đi tu đang làm “thày.” Buổi sáng không có gì ăn, may lắm được cha xứ cho uống cà phê. Buổi trưa, giả đò đi thăm hỏi anh em họ hàng, rình tới đúng lúc họ đang ăn trưa mà tới, hy vọng họ “chào dơi,” liền sà vô “ăn chực.” Có một buổi trưa hôm, tôi giả đò tới thăm gia đình cô ruột. Gia đình cô ruột của tôi làm nghề mổ heo và bán ở chợ. Đây là lần thứ hai tôi tới. Dĩ nhiên được mời ăn hoặc “chào dơi,” trong khi gia đình vừa bắt đầu bữa trưa. Tất nhiên tôi nhào vô ăn. Tôi mới ăn được gần nửa chén cơm, chú rể tôi, chẳng hiểu đang nói gì, tự nhiên to tiếng với người con lớn cỡ mười lăm tuổi, “Thằng này tối ngày cứ lo lêu lổng không giúp gì cho gia đình.” Tôi chột dạ, ăn chực mà, nuốt vội phần cơm còn lại trong chén rồi đứng lên. “Sao ăn ít vậy?” Cô tôi hỏi. “Dạ, cháu cũng mới ăn xong trước khi ghé thăm cô chú.” Tôi trả lời trong khi bụng càng đói thêm nhưng lòng cảm thấy nhục điên lên. Tôi phải gồng mình, nín hơi nén lòng, cố lấy giọng bình thường trả lời cô tôi, và cũng cố gắng chậm rãi chào và ra về với lòng nửa sôi sục vì cảm thấy bị nói cạnh, nói khóe, nửa bực tức muốn điên lên vì phận số đẩy tôi vào bước đường cùng, nửa rán chịu đựng cái bụng càng đói thêm.
TTM. Đấy là kỷ niệm khó quên, nhưng ngài có nghĩ rằng có lẽ trong lúc mình đang mang mặc cảm nên ai nói gì, dù rất vô tình, cũng có thể làm tổn thương danh dự. Ngoài kỷ niệm trên, còn kỷ niệm bi đát nào trong đời nữa không?
LMT. Sau khi vượt biên hụt lần thứ nhất, bởi chưa quen đường đi nước bước nơi sông lạch miền Chu Hải, tôi chạy thoát trên vùng đước đã bị chặt vát để lấy củi đốt than khuất dưới mặt nước mặn. Đôi chân học trò ngâm nước mềm da bị gốc đước được chặt vát cắt nát. Tôi khập khễnh trở về quê cũ tránh bị du kích xét hỏi. Bố mẹ bỏ đi để lại hai mẫu tây chuối, người em bán xài hết chỉ còn một căn nhà. Và em cũng muốn bán luôn căn nhà; nghe đâu đã có người bằng lòng mua với giá hai cây vàng. Tôi muốn giữ lại căn nhà để người em có nơi trú ngụ dẫu trong lòng vẫn tha thiết tìm đường vượt biên. Giãi bày, phân bua hơn thiệt, em tôi lên giọng, “Đ.M. không có tao lấy Đ. gì mà ở. Tao sẽ đi báo công an xã rằng mày vượt biên hụt trở về.” Tôi lạnh người nghe em nói và tự nhủ nhỡ em tôi dám làm thật thì sao! Nhưng biết sao hơn, dẫu thế nào thì nó vẫn là em ruột của tôi. Giữ miệng im lặng, không nói thêm bớt dù chỉ một lời, tôi âm thầm tính toán tìm cách đương đầu.
TTM. Có những điều không tốt người ngoài nói hay làm đụng chạm đến mình, ta có thể bỏ qua dễ, còn bị người trong nhà làm nhục, dù chẳng đáng, vẫn làm ta đau cả đời. Sau khi bị em chửi, ngài đã làm gì?
LMT. Hoạ vô đơn chí ông ạ. Ngay hôm sau đó, có tin đồn bùng lên rằng tôi mê gái (mình còn gốc gác nhà tu mà). Người ta bảo bắt quả tang ngồi với gái nơi ngạch cửa nhà bên đường giữa thanh thiên bạch nhật gần nhà cô tôi (Chị này đã mấy lần cô tôi giới thiệu tôi nên lập gia đình với chị ta). Ngày tiếp theo, người em nghe được, nói tôi làm như thế thật mất mặt. Tôi bực lắm nhưng chỉ nhẹ nhàng trả lời, “Có mặt đâu mà mất.” Ôi, thời vận hẩm hiu, người xưa nói, “Chó cùng cắn dậu,” nhưng nếu cắn dậu lại tự hại mình thì đành cắn răng mà chịu; chỉ phiền lòng bởi nước cùng phải giả đò ngu ngơ, nghe dại, phỉnh phờ ham gái dẫu cũng cung phụng nàng được đôi phút vui tươi hài lòng vì có bạn trai đương dường sáng giá. Hiện nàng đang ở Hoa Kỳ nhưng không biết nơi đâu.
TTM. Đấy là những chuyện đau lòng trước khi làm linh mục. Từ ngày ngài làm linh mục đến nay, có gặp chuyện phiền não không?
LLM. Làm sao tránh được. Tôi hút thuốc, lại thường thức khuya viết lách, trong khi đang tiếp tục viết cuốn Mây Bay Về Ngàn. Nhà xứ đặt Alarm nên ban đêm mở cửa ra ngoài hút thuốc thì còi báo réo lên. Tôi bị kết tội rằng làm linh mục mà hay đi sớm về khuya, một lối ám chỉ nào đó, nhưng tôi cố lờ đi. Bị kết tội đêm hay bỏ nhà xứ đi hoang nên Giám Mục sai tôi đi nơi khác, không hỏi han lý do hoặc cho biện minh. Tôi im lặng coi như không biết gì, cũng chẳng gặp giám mục kêu ca, chỉ lòng tự hỏi lòng để xem Chúa muốn chơi trò gì với tôi. Tất nhiên, Chúa của tôi không giống Thiên Chúa theo Kitô giáo tin tưởng hay quan niệm. Cuối cùng thì án phạt hay xui xẻo đôi khi lại trở thành cơ hội, nào ai biết đâu. Ít nhất, tôi có thời gian viết xong cuốn Mây Bay Về Ngàn.
TTM. Tôi thông cảm cho sự cô đơn của đời linh mục. Các ngài khuyên người ta sống ngay lành, an ủi giáo dân khi họ gặp khốn khó, nhưng khi mình phải đối diện với những khó khăn thất vọng của mình, thì chẳng ai bên cạnh để giúp. Tuy nhiên xin chúc mừng ngài là dù đã phải kinh qua những khó khăn, buồi tủi, hay bị vu oan, ngài đã vượt qua tất cả và còn để lại cho đời những tác phẩm gạn lọc từ trí óc và con tim của mình. Bây giờ ngài làm gì mỗi ngày?
LMT. Tôi đã về hưu nên sinh hoạt mỗi ngày xoay quanh việc viết lách và làm vườn.
TTM. Chúc ngài hưởng những tháng ngày thật an nhàn và tự do như cánh chim vừa thoát khỏi lồng, bay lượn thênh thang giữa đất trời, và hót vang lên tiếng lòng mình qua những sáng tác mới. Mong được đọc những tác phẩm mới của ngài từ tư tưởng tôn giáo đến ca khúc ca ngợi cuộc đời. Lần sau chúng ta hạnh ngộ, tôi sẽ mời ngài két rượu ngon.
LMT. Xin cảm ơn ông, và cầu chúc ông và gia đình luôn an mạnh. Hẹn ông ngày nao gặp lại, có thời giờ tha hồ mượn rượu đấu hót. Xin Chúa chúc lành.
Trần Thu Miên
Các bạn độc giả có thể vào đường nối sau đây để đọc và nghe các tác phẩm của Lã Mộng Thường.

Be the first to comment