Những Chuyến Về Cố Hương Không Mong Đợi

LTS: Bất kể hiệp định ký kết giữa Hoa Kỳ và Việt Nam năm 2008 – những công dân Việt Nam đến Mỹ trước ngày 12 Tháng Bảy, 1995, không thuộc diện bị bắt buộc trục xuất về Việt Nam, trên thực tế, vẫn có nhiều người Việt tại Mỹ bất ngờ bị đưa về nước. Họ bị trục xuất trong âm thầm – không thông báo trước, không kịp chuẩn bị, và gia đình hoàn toàn không hay biết. Sau hơn ba thập niên xa quê, nhiều người không còn thông thạo tiếng Việt, không còn thân nhân tại quê nhà, và phải đối diện với muôn vàn khó khăn trong một xã hội đã quá xa lạ.

Việt Báo thực hiện loạt phóng sự độc quyền này, ghi lại lời kể của thân nhân những người bị trục xuất – những câu chuyện có thật, đầy bất trắc và u uẩn. Vì lý do an toàn cho các nhân vật đương sự, họ tên của nhân vật trong bài đã được thay đổi.

Ảnh ghép: 1. Trung Tâm Giam Giữ Người Nhập Cư ICE Tại Trại Giam Adelanto – Cơ sở này, là trại giam lớn nhất và mới nhất của Cơ quan Thực thi Di trú và Hải quan (ICE) tại California, đang giam giữ trung bình 1.100 người nhập cư đang chờ quyết định về hồ sơ nhập cư của họ hoặc đang chờ trục xuất. (Ảnh: John Moore/Getty Images); và 2. (Ảnh của istockphoto)

PHẦN 1: TRỤC XUẤT LÚC NỬA ĐÊM

LTS:  Trong Phần 1 – “Trục Xuất Lúc Nửa Đêm” – Việt Báo tường thuật câu chuyện của ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, bị bắt giữ khi đi gia hạn thẻ làm việc và bị trục xuất về Việt Nam mà gia đình không hay biết.

Tiếng gõ cửa lúc 3 giờ sáng

Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên.

“Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích.

Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.

Cùng với những người khác – không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại.

“Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles. Lúc đó, mọi người bối rối nhưng rồi vui mừng vì tưởng rằng mình được đưa đến đây để phỏng vấn và sẽ được về nhà. Không một ai nghĩ đến chuyện bị trục xuất,” cô K. Nguyễn, em gái của ông X., thuật lại lời kể của anh mình.

Anh của cô và những người trên xe ngồi chờ đến khoảng 5, 6 giờ sáng thì được đưa vào bên trong tòa nhà. Lối đi như đường vào mật thất. Không ai nhìn thấy họ, và họ cũng không biết mình đang đi ở đâu. Cho đến khi nhìn thấy bên ngoài thì ai cũng nhận ra đó là nơi ngồi chờ ở phi trường LAX. Tuy nhiên không phải nơi ngồi chờ chuyến bay như những hành khách thông thường.

“Họ đi ra máy bay cũng bằng một lối đi đặc biệt. Khi tất cả đã lên phi cơ, nhân viên chính phủ đi theo thông báo ‘các ông đến San Francisco’” cô K. nói. “Trong người họ không có một giấy tờ tùy thân nào cả.”

“Họ nói với anh tôi, ‘ông vào đây như thế nào thì khi ra như thế.’ Khi anh tôi bị giam giữ, trong người có một kính mát, một điện thoại, một cái bóp có $700. Anh mặc quần jean, áo sơ-mi, mang giày. Họ trả tất cả những thứ đó cho anh tôi.”

Trước khi ra khỏi trại giam Adelanto Detention Center, California, những người này được cởi bỏ bộ quần áo màu cam để mặc lại quần áo của chính mình.

Một nhóm khoảng 6, 7 người bị áp giải đến đây, ngồi chờ trong im lặng. Người giám sát họ không phát thức ăn, nước uống. Mỗi người bị kèm bởi hai nhân viên ICE mặc thường phục. Không ai biết họ sắp đi đâu. Sau đó, nhóm được đưa lên một chuyến bay ngắn đến San Francisco. Tất cả vẫn nghĩ rằng họ đang đến INS trụ sở San Franciso để phỏng vấn ở lại Mỹ.

Tại phi trường San Francisco, sau một số thủ tục không rõ ràng, họ được đưa vào khu chờ lên máy bay cùng với hành khách dân sự. Lần đầu tiên trong suốt nhiều giờ, họ được tự do đi lại quanh khu vực gần đó, có thể mua nước uống và thức ăn. Một lúc sau, có thêm năm, sáu người nữa từ New Jersey, Texas và vài nơi khác được đưa tới nhập nhóm.

“Có những người trong nhóm không có tiền. Anh tôi có sẵn $700 trong người nên đã mua thức ăn cho họ. Từ 3 giờ sáng cho đến giờ đó, họ hoàn toàn không được ăn uống gì,” cô K. kể.

Đến tối hôm đó, nhóm khoảng mười người bước lên chuyến bay Vietnam Airlines, bay thẳng về Tân Sơn Nhứt. “Họ hoang mang, nhưng cũng có người mừng. Mừng vì sau hơn ba mươi năm, lần đầu tiên họ trở lại quê hương – dù là trở về trong cảnh bị dẫn độ,” cô K. nói trong tiếng nấc. “Thương lắm. Không ai kịp nghĩ đến những gì đang chờ họ bên đó.”

Một tháng trước đó

Một buổi sáng đầu tháng 3/2025, vợ chồng ông X. Nguyễn đi gia hạn “working permit” của ông. Vợ của ông ngồi chờ ngoài xe. Những năm trước, thời gian làm hồ sơ gia hạn không quá một giờ đồng hồ, gồm có chụp hình, lăn tay, và gia hạn thẻ làm việc.

“Lần này, vợ của anh tôi ngồi chờ một tiếng, hai tiếng, rồi ba tiếng vẫn không thấy trở ra. Chị chạy vào hỏi thì nhân viên yêu cầu chị về đi, ‘tôi không nghĩ là ông ấy về nhà hôm nay.’”

Vợ của ông X. tiếp tục chờ ngoài xe. Đến khoảng 2 giờ chiều, bà trở vào hỏi một lần nữa. Sau khi tra cứu hồ sơ, một nhân viên di trú cho hay ông đã bị đưa vào trại giam.

“Gia đình tôi lúc đó không biết phải làm gì. Không ai nghĩ anh tôi sẽ bị bắt hay bị trục xuất. Khoảng 6 giờ chiều, cả nhà vào trang mạng của sở di trú, mới biết anh tôi đã bị đưa vào Adelanto Detention Center,” cô K. nói.

Cho đến ba ngày sau, gia đình ông X. mới nhận thông tin chi tiết về trại giam, số phòng giam, lịch hẹn có thể đến thăm. Mỗi lần thăm được một tiếng, giới hạn cho ba người. Theo lời của cô K. kể về thời gian vào thăm anh, những người bị đưa vào trại giam giữ rất hoang mang.

“Đặc biệt rất nhiều người Việt ở Bolsa bị giam giữ trong đó. Họ là những thanh niên trẻ, trung niên. Tôi hỏi những thân nhân đi thăm mới biết đa phần họ là những người đến đây trước năm 1995. Đáng nói ở chỗ họ là những người có công ăn việc làm đàng hoàng. Có những người bị đưa vào trại cùng ngày với anh của tôi, có những người trước đó một tháng.”

Ngay khi bị đưa vào Adelanto Detention Center, họ phải cởi bỏ những bộ quần áo đang mặc trên người để mặc vào “áo tù.” Màu áo dùng để phân biệt người hiện ở Mỹ (áo màu cam),  người vượt biên leo tường biên giới thì màu khác. Khoảng một tuần sau đó, trại giam đưa họ vào những tòa nhà khác nhau, tuỳ tội trạng họ phạm phải trong quá khứ. Cuộc sống “tù nhân” bắt đầu, dù án tù họ đã thi hành xong từ rất lâu.

Qua lời kể của gia đình ông X. Nguyễn, cuộc sống trong Adelanto Detention Center, California, có vẻ không đáng sợ như những trại giam giữ khác ở Florida, hay Texas. Tạp chí The Guardian ngày Thứ Hai, 21/7/2025, dẫn phúc trình của Human Rights Watch, Americans for Immigrant Justice, và Sanctuary of the South cho biết, tại một nhà giam di trú ở Miami, những người di dân đã bị xiềng tay ra sau lưng và bắt quỳ gối cuối mặt xuống ăn cơm từ dĩa xốp “như chó.” Sự việc này chỉ là một trong nhiều ngược đãi xảy ra tại các nhà giam di trú đông đúc ở miền Nam Florida mà truyền thông mạng xã hội đã chỉ trích rất nhiều trong mấy tháng qua.

“Một ngày họ có ba bữa ăn. Thức ăn toàn là đồ Mỹ, không có thịt. Đây là những người đã ở Mỹ lâu rồi nên họ cũng thích nghi với những thức ăn đó. Có máy tự động bán mì gói. Mỗi người bị giam có một tài khoản để gia đình của họ bỏ tiền vào, dùng để mua thức ăn, nước uống, hoặc gọi điện thoại ra ngoài. Tuyệt đối không cho dùng tiền mặt. Mỗi ngày, sau giờ ăn sáng, họ được ra ngoài sân chơi thể thao,” cô K. nói.

Theo lời anh của cô kể, trong nhà giam rất lạnh, dù California đang vào mùa Hè oi bức. Một phòng giam khoảng ba, bốn người. Mỗi người một giường có nệm, gối. Họ được phát cho một túi màu cam, loại mà những người bán hàng rong bên vệ đường dùng để đựng trái cây. Cách vài ngày, họ bỏ quần áo dơ vào túi này, đặt trước cửa phòng để trại giam mang đi giặt.

Họ không biết được rằng, cũng chính chiếc túi sơ sài đó, một tháng sau sẽ là “hành lý” cho họ trở về cố hương.

Những lời hứa quanh co

Theo lời cô K., trong hai tuần đầu tiên, anh của cô được thông báo rằng ông sẽ bị giữ lại đây ba tháng để chính phủ rà soát hồ sơ, nếu không sai phạm gì thì cho về nhà.

“Gia đình tôi hy vọng. Nhưng một tháng sau, anh tôi gọi về, nói anh cần những lá thư,” cô nói.

Trại giam yêu cầu gia đình gửi những lá thư do bạn bè, người quen viết, để khi xem xét lại hồ sơ của từng người, họ cần bằng chứng đây là người xứng đáng được cho về với gia đình.

“Gia đình tôi viết thư tay, dán tem bảo đảm gửi vào, nhưng không được gửi cho anh tôi mà phải gửi trực tiếp cho người quản lý trại giam đó. Sau đó, mọi chuyện rất bình thường. Gia đình vào thăm. Anh tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Cho đến buổi sáng đó, một người bị giam cùng phòng với anh tôi gọi cho gia đình, báo là anh tôi đã bị đưa đi với những người khác mà không biết đi đâu,” cô K. nói.

Cho đến khi gặp lại anh mình ở Việt Nam, cô K. mới biết tất cả những lá thư đó còn nguyên vẹn, chưa từng được mở ra. Ngay cả lần khám sức khỏe gần nhất trước khi bị trục xuất, mãi sau này họ mới biết lý do.

“Anh tôi kể được đưa đi khám sức khỏe. Không những vậy, người của Lãnh sự quán Việt Nam đến gặp từng người, hỏi thông tin cá nhân. Sau này, anh tôi và những người bị trục xuất mới biết là để làm hộ chiếu Việt Nam,” cô nói. “Anh tôi nói tất cả đã có sự sắp xếp trước nhưng sở di trú không nói sự thật, mà ‘chỉ tìm cách để trấn an người bị giam giữ, chẳng khác nào cho họ liều thuốc để dỗ giấc ngủ ngon.’”

Việt Báo gọi đến ba số điện thoại ghi trên trang web của Lãnh Sự Quán Việt Nam ở San Franciso, nhưng không số nào có người trả lời. Chúng tôi cũng gọi đến trại giam giữ Adelanto Detention Center để hỏi thêm. Người trả lời máy đề nghị đọc số thẻ hoặc tên của người bị giam. Khi biết chúng tôi gọi để hỏi về vấn đề trục xuất, người này chuyển số máy đến phòng báo chí, nhưng bên kia đường dây là đề nghị để lại tin nhắn qua điện thoại.

Họ đã trả lỗi lầm của mình

Ngay khi nhận được tin anh mình bị trục xuất về Việt Nam, gia đình cô K. nhớ lại những lời kể của ông X. khi còn bị giam giữ để suy ra “anh tôi bị đưa về Việt Nam.” Chiều hôm đó, cô bay về Sài Gòn.

Cũng chính ở đây, cô K. tận mắt chứng kiến những hình ảnh hồi hương không mong đợi, những ánh mắt bỡ ngỡ, lo lắng khi đặt chân lên mảnh đất họ đã rời xa quá lâu, có những người không còn chút ký ức gì. Cô cũng biết đến một tình cảm gọi là tình đồng hương dù họ chưa từng gặp mặt nhau. Đó là The Ba Lô Project – một nhóm thiện nguyện ra đón những người không có thân nhân ở Việt Nam, và giúp đỡ cho họ trong những tuần lễ đầu tiên ở nơi mà từ nay, họ sẽ tập gọi là quê hương.

“Quá khứ của họ đã xong rồi, đừng nhìn về quá khứ nữa. Họ còn có gia đình, con cái. Vậy mà bị đưa đi không một lời từ giã, không một cái ôm. Dù là về đất Mẹ, nhưng đó là nơi hơn 30 năm, 40 năm họ chưa quay về và không còn thân nhân nào bên đó,” cô K. nói, xen lẫn là những quãng lặng nghẹn lời.

“Nếu ai có thân nhân phải đi trình diện hoặc gia hạn thẻ làm việc, đừng mang theo bằng lái, ID, hoặc bất cứ giấy tờ nào liên quan chính phủ, chỉ trừ tờ giấy gia hạn. Vì tất cả giấy tùy thân sẽ bị Sở Di Trú giữ lại hết. Hãy gửi cho người thân một vali nhỏ dạng carry-on, trong đó để vài bộ đồ, thuốc men cần thiết, quan trọng là đồ charge điện thoại,” cô K. ngỏ lời với cộng đồng.

* * *

Khi đón người bị trục xuất ở phi trường Tân Sơn Nhứt, Ba Lô Project trao cho mỗi người một ba lô, trong đó có các vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim, và $50. (Hình: Ba Lô Project)

PHẦN 2: TRỞ VỀ SAU 30 NĂM VỚI COLLECTIVE FREEDOM VÀ ‘BA LÔ PROJECT’

Trong phần 2, Việt Báo phỏng vấn Giáo sư Thảo Hà, người sáng lập Collective Freedom, và Lê Bảo Cát của Ba Lô Project (BLP) – hai tổ chức phi lợi nhuận giúp đỡ người bị trục xuất khi họ về đến Việt Nam.

Tân Sơn Nhứt sau 30 năm

Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn.  Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.

“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.

Người nào không có thân nhân, không có tên trong danh sách giúp đỡ của BLP, thì chính quyền địa phương nơi họ từng sinh sống trước khi rời Việt Nam sẽ ra đón. Những người bị trục xuất khi về đến Việt Nam nhận một hộ chiếu và thẻ căn cước công dân có thời hạn sáu tháng. Theo cô K. mô tả, hộ chiếu đóng dấu ở San Francisco, “có nghĩa là khi anh tôi lên phi cơ thì giấy tờ trục xuất đã sẵn sàng hết,” cô nói.

Một tuần sau, hai anh em cô ra phi trường để đón nhóm “hồi hương” kế tiếp. Lần này, cô tận mắt chứng kiến những hình ảnh mà với cô là “không thể hình dung được.” Cô K. kể lại ngày hôm đó:

“Tôi ra phi trường với anh tôi và một người của BLP. Có những người khi đi ‘report’ bị bắt, họ chỉ mặc quần ngắn, áo sơ mi, thêm cái áo khoác. Có người lại bị còng tay phải lấy áo khoác che lại. Bà con đi đón thân nhân nhìn vào thì sẽ không thấy sự khác biệt. Nhưng, có điều này mình để ý, vì không có túi xách gì cả, nên họ bỏ quần áo tù màu cam vào trong cái túi lưới dùng đựng quần áo dơ khi ở trong tù. Họ xách trên tay như thế cùng với một tập hồ sơ đi từ Mỹ về Việt Nam. Nhìn tội lắm.”

Cuộc đón tiếp giữa những người xa lạ nhưng cùng cảnh ngộ kết thúc ở một quán phở gần phi trường. Nơi đây, cô chứng kiến hình ảnh xúc động của một thanh niên khoảng 30 tuổi, rời Việt Nam khi còn bé và đây là lần đầu tiên anh quay về. Cô K. tạm gọi tên anh là A.

“Cậu A. không nói được tiếng Việt, hỏi mượn tôi điện thoại để gọi báo tin về cho mẹ ở Texas, ‘vì mẹ em không biết em về Việt Nam.’ Tôi nghe mà rớt nước mắt,” cô K. kể.

Gia đình của A. định cư ở Texas từ khi đến Mỹ. Sau này anh đi nơi khác làm ăn, rồi dừng chân ở Bolsa. “Xảy ra chuyện ở Bolsa, rồi sau đó em ở lại Bolsa đến bây giờ,” cô K. thuật lại lời cậu A. “Vì không thường xuyên gọi về cho gia đình nên mẹ cậu ấy cũng không biết cậu bị ICE bắt giữ một tháng qua.”

“Tôi gọi về Texas theo số điện thoại cậu A. đọc rồi đưa máy cho cậu ấy. Cậu ra gốc cây đứng nói chuyện với mẹ. Tôi đứng gần đó, canh chừng sợ người ta giựt điện thoại. Hai mẹ con nói chuyện một tiếng đồng hồ. Thấy cậu rơi nước mắt tôi thật xót xa.”

Tô phở thơm lừng, nóng hổi – bữa ăn ngon đầu tiên trên đất mẹ – là chút an ủi ấm lòng do nhóm BLP mang tới cho những người vừa trở về sau những tháng bị giam giữ. Ăn trong lặng lẽ, nhiều người rưng rưng, như thể họ vẫn chưa hiểu được mình đang ở đâu. BLP đưa họ về nhà nghỉ, mỗi phòng hai, ba người. Theo lời cô K., nhóm đã cố tình chọn nơi tạm trú gần khu thị tứ để thuận tiện cho việc ra ngoài mua sắm, nhất là những món đồ cá nhân căn bản cho cuộc sống đời thường mà họ phải bắt đầu lại từ đầu.

“Có người sang ngày hôm sau hỏi chỗ đi cắt tóc để đến chào người bà con của gia đình. Rồi họ rủ nhau đi vô chợ. Ai cũng không có tiền, chỉ có $50 của BLP đổi ra tiền Việt, vậy mà thấy người ăn xin bên đó họ lấy tiền ra cho, còn nói sao ở Mỹ cũng có homeless xin tiền mà không thấy xót như cảnh ở đây,” cô K. kể.

Sau ngày hôm đó, những người này vừa phải hòa nhập vào một Việt Nam quá xa lạ, vừa phải lo những giấy tờ pháp lý để bắt đầu trang đời mới. Nước Mỹ để lại sau lưng. Hiện tại và phía trước của họ là Việt Nam.

Trong khi đó, Collective Freedom và Ba Lô Project lại tiếp tục công việc, lại chuẩn bị “ba-lô” giúp đỡ cho những những trường hợp kế tiếp.

Collective Freedom và Ba Lô Project

Tháng Giêng, 2025, với các sắc lệnh hành pháp của chính quyền mới, nhiều thế hệ trẻ ở Mỹ nhận thấy xã hội bắt đầu bị ảnh hưởng, như y tế, di dân, tị nạn, giới tính… Trong đó có Lê Bảo Cát, một người làm về di trú, ở North Carolina. Cô chia sẻ với Việt Báo:

“Như nhiều người thuộc thế hệ của mình, tôi nhận thấy có một cuộc tấn công, không chỉ vào quyền lợi, mà còn vào chính bản sắc của chúng ta, của cả một thế hệ, của một cộng đồng. Chúng ta đã thấy điều đó trên quá nhiều mặt trận. Rồi những cuộc trục xuất diễn ra, cũng như nỗi sợ bao trùm. Mỗi sáng thức dậy là những tin trong nước, rồi ở Gaza, cơ thể tôi bị phản ứng sinh học, như bị đóng băng. Tôi phải chọn giải pháp, phải làm gì đó, tập trung vào nó, để tất cả chúng ta sẽ trở nên mạnh mẽ hơn. Và tôi nghĩ chính là giây phút đó, như có một lời gọi, hãy làm gì đó, hãy ‘thu dọn hành trang’”

Và đó là thời khắc BA LÔ PROJECT ra đời. Cái tên Ba Lô, vốn tự nó đã nói lên tất cả ý nghĩa. Cũng là “backpack – ba lô” nhưng nó không lạnh lùng, băng giá như tiếng nhắc nhở của quản giáo Adelanto Detention Center, “pack your backpack”. Nó chứa đựng tất cả những gì gọi là tình người, và sự hy vọng.

“Chúng tôi gọi là Ba Lô là có ý nghĩa như thế. Bạn có thể không thích cái tên đó, hoặc không thích việc đưa cho ai đó vài bộ đồ lót, cái áo, kem đánh răng, để họ có một chút gì phẩm giá của người bị trục xuất khi họ ra khỏi trại giam giữ. Tôi không quan tâm người đó là ai. Tôi chọn làm việc mà tôi có thể làm. Thế là hồi Tháng Tư, tôi và Jennifer Huỳnh ngồi với nhau, cùng với 13 người nữa. Ba Lô Project ra đời,” Lê Bảo Cát kể lại qua điện thoại.

Nhóm BLP chính thức hoạt động từ Tháng Tư 2025. Các thành viên làm việc theo hình thức “truyền miệng.” Có khi chính những người bị bắt giữ giới thiệu với người cùng nhà giam tìm đến BLP. Do đó, không phải tất cả những ai bị trục xuất đều có thể có tên trong danh sách hỗ trợ của BLP.

Để có tên trong danh sách được BLP đón ở phi trường, gia đình của người bị trục xuất, hoặc chính người đó sẽ liên lạc với BLP hoặc tổ chức COLLECTIVE FREEDOM do Giáo sư Thảo Hà, giảng dạy Xã hội học và Tư pháp Hình sự của trường MiraCosta College, sáng lập. Cô thành lập Collective Freedom năm 2024, từ ngân sách giải thưởng cô nhận được “2024 Nancy Jamison Fund for Social Justice” – với mục đích hỗ trợ luật pháp và nhập cư, những người bị ảnh hưởng bởi trở ngại pháp lý trong hành trình tái hòa nhập cộng đồng.

“Khi nói về trục xuất, thì sự chia cách gia đình là vấn đề đau buồn nhất của những người đó. Những người ngày xưa phạm tội, rồi vào tù, rồi bây giờ bị trục xuất. Họ nghĩ đến cái hiếu với cha mẹ chưa trả được. Họ lo lắng không biết ai sẽ chăm sóc cha mẹ già, hoặc gia đình, con cái của họ. Đó là vấn đề tinh thần họ phải đối diện,” Thảo nói.

Thỉnh thoảng cuộc nói chuyện qua điện thoại với Thảo Hà bị gián đoạn vì cô cần trả lời điện thoại của gia đình người đang bị giữ trong trại giam chờ ngày trục xuất hoặc của người gọi ra từ trại giam.

“Có một trường hợp tôi từng giúp. Người này bị ICE bắt ngay ở trạm xăng, khi anh đang trên đường đến đám tang của người cha. Gia đình chờ anh đến lễ tang nhưng không thấy, đã gọi cho tôi nhờ tìm giúp.”

Theo phúc trình của cơ quan Thực thi Di trú và Hải quan Hoa Kỳ (ICE), năm 2017, chính quyền Tổng thống Trump đã trục xuất 71 người về Việt Nam. Từ đầu năm 2025, với chính sách di dân trục xuất hàng loạt của thời Trump 2.0, Sở Di Trú Hoa Kỳ đã trục xuất khoảng 300 người Việt ở Mỹ. Hiện tại, Thảo Hà nói, có khoảng gần 400 người Việt đang bị ICE bắt giữ.

BLP sẽ đón người bị trục xuất ở phi trường Việt Nam, trao cho mỗi người một ba lô. Họ được thuê chỗ lưu trú ngắn hạn, được hướng dẫn làm giấy tờ lưu trú ở Việt Nam như thẻ căn cước, hộ chiếu vì họ chỉ có trong tay hộ chiếu sáu tháng. Giáo sư Thảo Hà nói:

“Với hộ chiếu tạm, bạn không thể làm được gì ở Việt Nam, không thể tìm việc làm, không thể thuê nhà ở, không thể đi học… BLP sẽ hướng dẫn những người đó làm hồ sơ để có căn cước công dân Việt Nam.”

Khi kể về trường hợp của anh mình, cô K. có nói rằng với tấm thẻ căn cước và hộ chiếu sáu tháng, anh cô không thể mua hoặc thuê xe gắn máy. Do đó, đi bộ, xe công cộng, là phương tiện duy nhất của họ.

Sự giúp đỡ này, như tâm sự của Thảo Hà, không chỉ là những vật dụng cụ thể, mà còn là một giá trị khác về tinh thần. Những người về đến Việt Nam sau hơn ba thập niên, khác biệt với văn hóa, ngôn ngữ, họ bỡ ngỡ, bị áp lực về tâm lý. Sứ mệnh của BLP là giúp họ vượt qua những ngày tháng đầu xa lạ trên quê hương. Trong nhóm những người tình nguyện viên của BLP ở Việt Nam, có những luật sư hướng dẫn họ làm những thủ tục như mở tài khoản ngân hàng để gia đình có thể hỗ trợ tài chính. Collective Freedom và BLP tìm đến những nhà hảo tâm làm kinh doanh ở Việt Nam để nhận những người bị trục xuất vào làm việc khi họ đã có căn cước công dân.

Từ tháng Tư năm 2025 đến nay, BLP và Collective Freedom đã giúp khoảng 50 người bị trục xuất về Việt Nam. Mỗi người là một hoàn cảnh khác nhau. Trường hợp ông X. Nguyễn là một ví dụ cho một người có gia đình, anh chị em ở Mỹ. Ông có sự giúp đỡ vô điều kiện từ những người thân. Em gái của ông đã bay từ Mỹ về Việt Nam để bên cạnh ông những ngày đầu bỡ ngỡ. Nhưng rất nhiều người khác, không được may mắn đó.

Do đó, tùy hồ sơ, Collevtive Freedom và BLP quyết định có những hỗ trợ khác nhau về thời gian.

Có nhiều trường hợp mà khi ở Mỹ, họ không gia đình, không nhà cửa, từng phạm sai lầm, từng bị tù tội, cuộc sống của họ mỗi ngày là một màu u tối. Giáo sư Thảo Hà nói, cô đã nói chuyện rất nhiều với những người vô gia cư ở Bolsa đã bị bắt, chờ ngày trục xuất. Điều mà cô nhận được từ họ đó là, “họ chờ đợi ngày về Việt Nam,” Thảo nói. “Bị trục xuất về Việt Nam đối với họ như một cơ hội để họ bắt đầu lại từ đầu.”

“Những anh em bị trục xuất có những kỹ năng rất giỏi. Họ cần được hỗ trợ để phát triển nghề nghiệp. Tìm kiếm việc làm là một nhu cầu rất quan trọng với họ,” Bảo Cát cho biết. “Có một công việc để nuôi sống bản thân ở nơi không có thân nhân, dù là cùng ngôn ngữ Mẹ đẻ, là một phần rất quan trọng trong việc thích nghi và ổn định về cảm xúc lẫn tinh thần. Họ đã trải qua quá nhiều biến cố,” Bảo Cát nói.

Cuộc sống ở Mỹ đã là những cánh cửa đóng lại với những người này. Theo phân tích của Thảo Hà, họ không có cơ hội tẩy xóa đi vết chàm mà tay đã vướng phải. Không thẻ xanh, không quốc tịch, thẻ làm việc thì phải đi làm mới theo đúng hạn kỳ cũng là một trở ngại khi xin việc. Do đó, họ hy vọng về Việt Nam như một cánh cửa mở ra cho họ con đường mới.

Để họ có thể tự tin mở ra cánh cửa ấy, Collective Freedom và Ba Lô Project và sự giúp đỡ của cộng đồng chính là chìa khóa. Lê Bảo Cát nhắn gửi: “Tôi mong với sự giúp đỡ và thấu cảm của chúng ta, họ được thay đổi, ít nhất là họ không cảm thấy xấu hổ. Chúng ta ai cũng phạm sai lầm, không ai hoàn hảo. Con người ai cũng xứng đáng nhận cơ hội. Đây là cách chúng tôi hỗ trợ họ, trao họ một cơ hội thứ hai.”

“Nếu chúng ta cùng hiểu những người từng phạm sai lầm đó đã trả xong án tù, 10 năm, 15 năm, 20 năm…, tin rằng họ sẽ không phạm tội nữa, thì hãy cùng lan tỏa lòng trắc ẩn, sự cảm thông đến những cuộc đời,” Giáo sư Thảo Hà chia sẻ.

Kalynh Ngô
https://vietbao.com ngày 01 & 08/08/2025

Hàng trăm người Việt đang mong đợi những vòng tay cho họ một cơ hội thứ hai trên mảnh đất quê hương đã trở nên quá xa lạ với họ. Đây là hai tổ chức đang hết lòng giúp đỡ và rất cần sự ủng hộ của cộng đồng.

1, Collective Freedom: https://www.collective-freedom.org

2. Ba Lô Project: Jennifer Huynh – Cat Bao Le – www.baloproject.org.
Email: baloprogram@gmail.com

Be the first to comment

Leave a Reply

Your email address will not be published.


*