Loạt bài Chữ Loang Miền Nhớ
Nữ nghệ sĩ Hồ Điệp tên thật Nguyễn Thị Nhu (Có tài liệu ghi là Nguyễn Thị Tý) sinh năm 1930 tại Sơn Tây. Bà vào Nam năm 1954. Thi sĩ Đinh Hùng đã phát hiện ra tài năng ngâm thơ thiên phú của bà nên đặt cho nghệ danh Hồ Điệp.
Có thể giải thích cái tên được hàng triệu người yêu mến này: Hồ Điệp nghĩa là Cánh Bướm, ý rằng giọng ngâm của bà nhẹ nhàng, mỏng manh, nhưng lại nhiều mầu sắc như những cánh bướm.
Hồ Điệp thường ngâm thơ trong chương trình Thi Văn Tao Đàn (Tiếng Nói Thi Văn Miền Tự Do), được đánh giá là giọng ngâm nổi bật hàng nhất thời đó. Gần mười giờ đêm ngày ngày, cảnh vật xung quanh chúng ta đã yên tĩnh, mà chúng ta lắng nghe Hồ Điệp ngâm thơ trên sóng điện với giọng trầm buồn, phảng phất nét Liêu Trai, cứ tưởng chừng như ở cõi mộng. Ngót 60 năm, nhiều người vẫn còn như nghe thoang thoảng đâu đây giọng ngâm có một không hai ấy, phải rợn tóc gáy, nhất là qua bài Gửi Người Dưới Mộ của thi sĩ Đinh Hùng:
Trời cuối Thu rồi – Em ở đâu
Nằm trong đất lạnh chắc em sầu?
Thu ơi! đánh thức hồn ma dậy
Ta muốn vào thăm đáy mộ sâu
Em mộng về đâu?
Em mất về đâu?
Hằng đêm ta nguyện, ta cầu
Ấy mầu hương khói là mầu mắt xưa
Em đã về chưa?
Em sắp về chưa?
Trăng sao tắt, ngọn đèn mờ
Ta nằm nhỏ lệ, đọc thơ gọi hồn…
Giữa một đêm Trăng bàng bạc nào đó, nghe bà ngâm nga thánh thót, không ít người đã phải rùng mình tưởng chừng như hồn phách đang lang thang cõi âm.
Hồ Điệp trông hiền dịu phúc hậu, nụ cười luôn nở trên môi khiến nhiều người thương mến. Nhà thơ Nguyễn Phan Cảnh đã ví von, bà là một Quý Bà Thanh Sắc:
Thanh Sắc vọng mãi Đất Trời
Nghìn Thu cánh bướm vỗ hoài hồn Thơ
Với tài năng ít ai sánh bằng, bà được mời trình diễn ngâm thơ ở nhiều nước: Pháp, Thụy Sĩ, Thái Lan, Nhật, Đài Loan. Khán giả Việt Kiều tha hương nhớ nhà nhớ nước lắng nghe Hồ Điệp biểu diễn mà lòng thổn thức nức nở. Cây bút Bích Huyền của Đài VOA kể lại trong bài Một Thoáng Hương Xưa, vào năm 1961, tại một cuộc họp văn nghệ sĩ với sự tham dự của thi sĩ Vũ Hoàng Chương, Hồ Điệp, nhà văn Mặc Thu (tác giả Gang Thép Đợi Chờ, Bát Cơm Bát Máu) và nhiều người khác, Vũ Quân đã làm hai câu thơ tặng cả Mặc Thu và Hồ Điệp:
Mưa cầm, gió bắc thương Hồ Điệp
Thép đợi, gang chờ, xót Mặc Thu
Nhà Thơ Hoàng Hương Trang kể lại:
Từ khi mình còn nhỏ, Hồ Điệp là cô bé rất xinh đẹp với giọng cười trong như dòng suối tinh khiết, ngày đó chưa u uẩn và chưa biết buồn viễn xứ. Khi vào Sài Gòn, Hồ Điệp hay ra quét lá cây Trứng cá rụng đầy sân. Cô thường mặc quần satin Tuyết Nhung, áo phin trắng nõn, gấu và cổ tay quần áo có thêu rua. Buổi tối đi hát, cô đeo kiềng vàng, mặc áo nhung đen rưng rức trơn một mầu, không thêu, không vẽ. Choàng tấm khăn voan mỏng, chân mang hài cong, trang điểm sơ sài, tóc bới cao hay quấn khăn vành dây. Cử chỉ cô thật khiêm cung, nhỏ nhẹ, với nét đẹp truyền thống của thục nữ Bắc Hà.
Tác giả Phạm Công Luận (Sài Gòn – Chuyện Đời của Phố) cho biết Hồ Điệp có giọng ngâm mang phong cách cổ điển, âm hưởng Ca trù, thành công với các bài Thất ngôn và Lục bát, nhất là các đoạn trong Truyện Kiều, Chiêu Hồn Thập Loại Chúng Sinh của thi hào Nguyễn Du, thơ Bà Huyện Thanh Quan, và TTKH rất được thính giả ưa thích.
Cây bút Chu Văn Lễ nhận xét, giọng ngâm Hồ Điệp chắc chắn đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển của Thi ca và trở thành một phần không thể thiếu trong sinh hoạt văn hóa nghệ thuật miền Nam.
Sau 1975, Hồ Điệp từ chối trình diễn, chỉ nhận lời ngâm thơ tại các chùa hay nhà bạn hữu. Trần Vĩnh Tường, cựu nữ sinh Trưng Vương viết về Hồ Điệp trong bài Cánh Bướm Bên Trời:
“… Năm 1987, tôi ở trại tị nạn Sin Thai dành cho người vượt biên đường bộ, nằm lẻ loi giữa chân ngọn núi Danreck, thuộc địa phận Thái Lan, cách biên giới Cao Miên chừng 1 km. Lúc đó tôi đang làm việc cho cơ quan Hồng Thập Tự Quốc Tế, lo chuyện tiếp đón, theo dấu người tị nạn, tìm cách đưa họ rải rác từ những cánh rừng về trại. Hôm đó chúng tôi nhận được một lá thư từ Mỹ gửi qua nhờ theo dõi tin tức người thân đã rời Sài Gòn khoảng đầu 1988. Thư cho biết nhóm gồm 11 người trong đó có Hồ Điệp. Đọc xong, lòng tôi nghẹn ngào. Phần vì lo, phần vì mừng. Đã có người đến được trại, và có những bước chân thì vĩnh viễn ngừng lại ở đâu đó, giữa cánh đồng, nơi khe núi, bên cạnh bụi Tre rừng”.
“Tôi báo tin cho một số bạn trong trại. Đêm đó ngồi bên nhau, chúng tôi say sưa nhắc lại những bài thơ, những giọng ngâm của Tao Đàn ngày trước. Ngoài Hồ Điệp, Giáng Hương, Hoàng Oanh, còn những giọng nam như Tô Kiều Ngân, Quách Đàm, Hoàng Thư. Con trai Giáo sư Nguyễn Sĩ Tế là Nguyễn Sĩ Độ mang ghi-ta đệm nhẹ vài dòng nhạc cho Thu Hà cất tiếng ngâm Gửi Người Dưới Mộ mà Hồ Điệp từng ngâm trên Đài Sài Gòn. Bài thơ hay quá đỗi, quá Liêu Trai, phù hợp với ánh Trăng xanh nhạt rải trên mái Tranh, trên từng đám lá Mồng tơi. Tôi quay lại nhìn rặng núi tím thẫm đằng kia để thầm lau nước mắt”.
“Ngày qua ngày, mỗi khi có người tị nạn đến trại, chúng tôi đều hỏi thăm tin tức. Thế nhưng thời gian qua đi, cánh bướm vẫn biền biệt bên trời. Không ai có thế ở trong rừng 6 tháng mà sống sót được”.
“Buổi tối cuối cùng, tôi sang trại Panat để đi Mỹ, bùi ngùi giây phút chia ly. Mọi người yêu cầu Thu Hà ngâm lại bài Gửi Người Dưới Mộ. Bỗng dưng một cánh bướm lẻ loi bay chập chờn trước mặt. Hết dừng trên phím ghi-ta lại nằm yên trên tay Thu Hà. Mọi người rùng mình nhìn nhau. Hay là Hồ Điệp cảm động mối tình chung của thính giả mà bay về báo mộng?”.
“Qua Mỹ nhiều năm. Đọc báo không thấy tin gì về Hồ Điệp cả. Thôi… thôi! Vậy là mây đã tan. Trăng đã khuyết. Ngọc đã vỡ thật rồi…”.
Hoàng Hương Trang cho biết thêm, di ảnh Hồ Điệp được một thính giả yêu giọng ngâm của Bà đem thờ trong chùa An Lạc, đường Phạm Ngũ Lão, Sài Gòn. NguoiVietBoston đưa tin thêm, các con của Hồ Điệp sau đó đã định cư tại Mỹ.
Quả là, trong số các nghệ sĩ ngâm thơ trước 1975, Hồ Điệp là đàn chị và nổi tiếng hơn cả. Bà ngâm tuyệt vời và xuất sắc mọi thể loại. Nhưng bà cũng là người chịu bất hạnh nghiệt ngã nhất sau 1975, vì đã mất tích trong rừng. Bà được cho là mất vào quãng năm 1987-1988, có nghĩa là khi đó đã 57-58 tuổi, cái giá phải trả cho cuộc đi tìm tự do ở tuổi ấy sao mà đắt bằng cả sinh mệnh mình – Nhưng vẫn kiên quyết ra đi, dù là phụ nữ chân yếu tay mềm.
Còn nhớ, giọng ngâm thiên phú của Hồ Điệp là ngâm trong trẻo và sắc sảo, vừa sang trọng vừa cổ kính. Chuỗi ngân của bà không phải là chuỗi ngân của ca sĩ Tân nhạc, mà như tác phẩm Theo Chân Những Tiếng Hát của Hồ Trường An có viết:
“(…) Đó là chuỗi ngân trong khẩu cái (1) chứ không phải ở trong cổ họng, nên nó đã kết thành từng hạt nhỏ li ti như hạt cườm. Chị thường pha thêm điệu lẩy Kiều vào cách ngâm của mình. Song ngâm hay lẩy Kiều, hay pha Sa Mạc, hoặc pha Bồng Mạc, lối nào chị cũng sành sỏi, cũng quyến rũ cả. Có thể bảo, bài Chiêu Hồn Thập Loại Chúng Sinh của Nguyễn Du, chưa có ai diễn tả vượt qua Hồ Điệp. Người nghe phải rợn tóc gáy bởi giọng lảnh lót và ma quái của chị. Ban Tao Đàn, vào mỗi kỳ lễ Vu Lan, thường nhờ Hồ Điệp ngâm bài này”.
“(…) Hồ Điệp đẹp. Vóc dáng thanh mảnh, khuôn trăng phúc hậu. Miệng tươi cười, nhưng cặp mắt sao mà buồn quá đỗi! Chị mà diện áo nhung lam hay áo nhung xanh vào, thì trông sang như một mệnh phụ. Đã vậy, chị lại có tư cách, quen nói năng mềm mỏng như một phụ nữ con nhà nền nếp. Nhiều văn nghệ sĩ sáng tác như Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Thị Vinh, Trần Thị Tuệ Mai, Phạm Thiên Thư, Thanh Nam, Hoàng Hương Trang, Nguyễn Thị Thụy Vũ đều quý mến chị”.
Những thi phẩm lừng danh mà Hồ Điệp đã ngâm trong chương trình Tao Đàn: Sáu bài Kim Vân Kiều, bài Cố Nhân – Thơ Hoàng Phong Linh, bài Đàn Thu Tay Ngọc – Thơ Đinh Hùng, bài Giục Giã – Thơ Xuân Diệu, bài Thi Nhân Không Tuổi – Thơ Bàng Bá Lân, bài Vạn Lý Tình Thơ – Thơ Huy Cận.
Bạn xem ảnh ngày ấy, có thấy Hồ Điệp xinh đẹp, mà mong manh không?
——-
(1) Một chữ rất hiếm gặp: Khẩu là miệng, Cái là chính. Với ý Hồ Điệp có giọng ngâm thiên phú, làn hơi từ trong miệng đã sẵn có và khỏe, không cần phải lấy sâu từ lồng ngực.
Fb Trịnh Anh Khôi
* * *
Cuốn băng thơ này được Hồ Điệp ghi âm tại Việt Nam để làm quà chia tay, 1982. Đàn tranh của Mệ Bửu Lộc.

Be the first to comment