
Nội dung phần 1 này của 4 tác giả, sinh ra và lớn lên trên đất Bắc: Trần Đức Thảo, Trần Mạnh Hảo, Phạm Thanh Nghiên và Dương Thu Hương. Vào bài …
Triết gia Trần Đức Thảo
“Mới đặt chân đến Sài Gòn -trước đó là thủ đô miền Nam- mọi sự đã làm tôi kinh ngạc. Qua bao nhiêu năm chiến tranh gian khổ mà sao Sài Gòn khang trang hiện đại đến như vậy? Theo lời Ban tuyên Giáo của đảng, chúng tôi tin là cả miền Nam đói khổ vì bị Mỹ – Ngụy bóc lột, đến nỗi miền Bắc đã phải “cắn hạt gạo làm tư” để mang vào cứu giúp miền Nam cơ mà. Điều ngạc nhiên thêm nữa, là người miền Nam nói năng ngọt ngào và cởi mở như bạn bè lâu ngày gặp lại, dù mới gặp lần đầu. Ngay những cán bộ đảng nằm vùng ở đây, cũng được tự do như người dân miền Nam vậy. Họ đãi đằng tôi, họ giễu cợt tôi, họ coi tôi như anh mán anh mường ở rừng sâu mới được vào thành phố, dù họ với tôi cùng là “đồng chí”.
Phải nói thẳng ra rằng: “Sài Gòn đã làm tôi bàng hoàng đến cùng cực. Đó là những bài hát của một anh chàng nhạc sĩ trẻ của miền Nam, nói theo chúng tôi là của Mỹ – Ngụy. Tên anh ta là Trịnh Công Sơn. Các bài hát của anh ta mang nỗi niềm day dứt, oán trách chiến tranh. Cứ như anh ta khóc than thay cho cả dân tộc ở cả hai miền Nam và Bắc. Giữa những năm tháng chiến tranh một mất một còn ác liệt như thế, mà sao anh ta cất lên tiếng kêu than giữa Sài Gòn đô thị một cách thản nhiên tự do như vậy. Đúng là Sài Gòn tự do. Những lời ca của những bản nhạc đã làm tôi xúc động, bồi hồi, không cầm được nước mắt”.
Nhà văn Trần Mạnh Hảo
“Ngày 30/4/1975, từ rừng Lộc Ninh về Sài Gòn, chưa kịp hoàn hồn, tôi đã bị Sài Gòn đánh chiếm bằng văn hóa, bằng văn học, bằng sách vở, bằng âm nhạc. Nhạc sĩ Phạm Duy và nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã chiếm tâm hồn tôi, và hình như tôi đã tự nguyện quy hàng thứ âm nhạc, thứ văn học, văn hóa mà chế độ của chúng tôi kết án là văn hóa phản động, âm nhạc đồi trụy. Các loại sách dịch gần như vô tận của Sài Gòn còn sót lại -sau đại họa đốt sách của chế độ chúng tôi- đã xâm chiếm đầu óc tôi, giải phóng tôi thoát khỏi ngục tù của dốt nát, của u mê, của cuồng tín ngớ ngẩn một thời, “bắt” tôi vào trường tự nguyện “học tập cải tạo đúng nghĩa” đến giờ chưa chịu thả ra”.
Nhà văn Phạm Thanh Nghiên
“Tôi đã khóc rất nhiều, cả day dứt nữa, khi tìm hiểu về miền Nam giai đoạn 1975 trở về trước. Có một miền Nam đẹp đẽ và tốt lành đến không ngờ trong sự hình dung của tôi. Một sự tiếc nuối đến thắt lòng, cảm giác như mình bị mất đi một thứ vô giá không bao giờ tìm lại được, dù tôi sinh tại miền Bắc, và sau năm 1975 vẫn chưa được sống ngày nào trên xứ sở đẹp đẽ ấy”.
“… Làm sao mà một người miền Nam có thể hình dung những người phụ nữ miền Bắc chúng tôi phải vạch áo, tự tay mình bóp thật mạnh vào bầu vú của mình trước mặt những ông cán bộ để chứng minh là mình không có sữa, có như vậy họ mới bán cho đứa trẻ sơ sinh con mình một xuất sữa bò theo tiêu chuẩn nhà nước. Nếu nặn đến cuối cùng mà đầu vú còn chảy ra chỉ vài giọt sữa, thì con tôi sẽ không có tên trong danh sách được hưởng chế độ hỗ trợ của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Và làm sao một người miền Nam hình dung nổi Thầy Giáo Cô Giáo phải cúi mình, chào một thằng nhãi ranh học trò bằng “ông” chỉ vì bố nó là cán bộ cộng sản”.
“Khi người dân miền Nam có tivi, có tủ lạnh, người miền Bắc vẫn bị cái đói bủa vây. Khi phụ nữ miền Nam biết trang điểm, mặc áo dài, váy đầm, đi giày cao gót, thì phụ nữ miền Bắc chúng tôi vẫn chưa biết đến cái băng vệ sinh là gì nữa. Phụ nữ chúng tôi phải dùng vải vụn, thậm chí nhà nào đông chị em gái thì dùng chung mấy tấm khăn vải màn. Dùng xong giặt sạch sẽ để các tháng sau mỗi kỳ kinh nguyệt lại sử dụng tiếp. Tôi không muốn kể ra chuyện này, nhưng đó là nỗi khổ sở, thiếu thốn điển hình của người dân miền Bắc chúng tôi nói chung, và người phụ nữ chúng tôi nói riêng, từ những năm 1960 kéo dài đến tận thời bao cấp”.
Nhà văn Dương Thu Hương
Tác giả có 6 tác phẩm được dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp, và tiếng Đức. Đặc biệt là quyển “Chốn Vắng” của bà đã được đưa lên truyền hình Pháp TF1. Đây có lẽ là cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất của bà, nằm trong danh sách đề cử giải Femina, và đã nhận “Giải Thưởng Lớn Độc Giả Tạp Chí Elle” (Grand prix des lectrices de Elle) năm 2007.
“Bà thở dài và nói: Điên rồ thì tôi có nhiều thứ điên rố, khóc thì tôi có hai lần khóc.
“Khi đội quân “chiến thắng” vào Sài Gòn năm 1975, trong khi tất cả mọi người trong đội quân chúng tôi đều hớn hở cười, thì tôi lại khóc. Vì tôi thấy tuổi xuân của tôi đã hy sinh một cách uổng phí. Tôi không choáng ngợp vì nhà cao cửa rộng của miền Nam, mà vì tác phẩm của tất cả các nhà văn miền Nam đều được xuất bản trong một chế độ tự do. Tất cả các tác giả mà tôi chưa bao giờ biết, đều có tác phẩm bày bán trong các hiệu sách, ngay trên vỉa hè. Miền Nam với đầy dẫy các phương tiện thông tin như TV, radio, cassette. Những phương tiện đó đối với người miền Bắc là những giấc mơ”.
“Ở miền Bắc chúng tôi, tất cả mọi báo đài, sách vở đều do nhà nước quản trị. Người dân chỉ được nghe đài Hà Nội mà thôi, chỉ có những cán bộ được tin tưởng lắm mới được nghe đài Sơn Mao, tức là đài phát thanh Trung Cộng. Còn toàn dân chỉ được nghe loa phóng thanh tập thể, có nghĩa là chỉ được nghe một tiếng nói”.
“Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam người ta có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ… nếu người ta muốn. Đó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát, khi nền văn minh đã thua chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải”.
Một nhà văn Pháp hỏi tôi: “Cái gì tạo nên sức mạnh của chúng mày trong cuộc chiến tranh Việt – Mỹ?”
Tôi đáp: “Một nửa là thói quen của hàng ngàn năm chống xâm lược, và một nửa kia là sức mạnh của chủ nghĩa ngu dân”.
Anh bạn chưng hửng: “Mày không đùa đấy chứ? Ai có thể tin nổi một thứ lý thuyết quái gở như thế”.
Tôi cười: “Rất nhiều thứ quái gở ở phương Tây, lại là sự thật đơn giản ở phương Đông. Và ngược lại.
Bây giờ, tôi xin giải thích “thứ lý thuyết quái gở” này. Cuộc chiến tranh Việt – Mỹ, được đảng cộng sản Việt Nam phát động với lời tuyên bố: Đánh đuổi quân xâm lược Mỹ”.
“Năm 1964, tôi mười bảy tuổi. Vào tuổi ấy, tất cả thanh niên ở miền Bắc không có quyền nghe đài phát thanh ngoại quốc, miền Bắc không có ti-vi, không có máy quay đĩa, không có bất cứ nguồn thông tin nào ngoài báo chí và đài phát thanh cộng sản”.
“Lần đầu tiên, tôi được nghe những bài hát ngoại quốc là năm tôi mười sáu tuổi. Mùa hè năm 1963, anh họ tôi là phiên dịch tiếng Nga, dẫn tôi cùng đứa em trai đến nhà ông chuyên gia mỏ thiếc Tĩnh Túc ở Hà Nội. Ông bà ấy đón tiếp rất tử tế, ngoài việc chiêu đãi bánh ngọt và nước trà chanh, còn mở máy quay đĩa cho chúng tôi nghe. Cảm giác của tôi lúc đó là choáng váng, như muốn chết. Đó là cảm giác thật sự khi con người lạc vào một thế giới mà họ vừa cảm thấy ngây ngất, vừa cảm thấy như ngạt thở. Đĩa nhạc đó là của Roberto (không nhớ họ), một giọng ca Ý tuyệt diệu nhưng chết trẻ. Những bài hát tôi nghe là các bài nổi tiếng cổ truyền: Ave Maria, Santa Lucia, Paloma, Sérénade, Histoire d’amour, Besame Mucho…”
“Ra khỏi cửa nhà ông chuyên gia Nga nọ, tôi bước đi loạng choạng. Lần đầu tiên, tôi hiểu rằng cuộc sống của chúng tôi là cuộc sống của những kẻ bị nhốt dưới hầm. Những bài hát kia là một thứ ánh sáng mà lần đầu tiên tôi được thấy. Ánh sáng đó rọi từ một thế giới khác, hoàn toàn ở bên ngoài chúng tôi. Kể lại chuyện này, để hậu thế nhớ rằng, thời đại của chúng tôi là thời đại của một thứ “chủ nghĩa ngu dân” triệt để. Một thứ chủ nghĩa ngu dân tàn bạo, nó buộc con người sống như bầy súc vật trong một hàng rào được xây nên bằng đói khát, hà hiếp, và tối tăm”.
“Khi con người bị điều khiển cùng một lần bằng tiếng gào réo của dạ dày, và cái bỏng rát của roi vọt, thì họ không thể là người theo đúng nghĩa thực sự. “Chủ nghĩa ngu dân” là thứ lá chắn mắt ngựa, để con vật chỉ được quyền chạy theo chiều mà ông chủ ra lệnh. Khi tất cả những con ngựa đều chạy theo một hướng, ắt chúng tạo ra sức mạnh của “bầy chiến mã”, nhất là khi trong máu chúng đã cấy sẵn chất kích thích cổ truyền “chống xâm lăng”.
“Với lũ trẻ chúng tôi thời ấy, danh từ “xâm lăng” dùng để chỉ quân Nguyên, quân Minh, quân Thanh, và bây giờ là quân Mỹ. Danh từ ấy đồng nghĩa với Tô Định, Mã Viện, Thoát Hoan… Tóm lại, chúng tôi được dạy rằng, Mỹ là lũ giặc phương Bắc nhưng mũi lõ, mắt xanh, tóc vàng. Đó là “sức mạnh của chủ nghĩa ngu dân”.
(Tóm lược bài của 4 tác giả do ông Lưu Vĩnh Lữ tổng hợp trong e-mail lvluu.tlg@ … ngày 24/2/2024)
Nhà văn Nguyên Ngọc
“Căn bệnh giả dối là nặng nhất, chí tử nhất, và toàn diện nhất”, đang hoành hành xã hội Việt Nam, khiến người ta thật sự không còn tin vào bất cứ điều gì nữa. Lãnh đạo đảng với lãnh đạo nhà nước, lại càng giả dối hơn hết”.
Nhà văn Nguyên Khải
Với bài viết như vừa tâm sự, vừa tự hào ẩn chứa nỗi đắng cay của người cộng sản trước khi nhắm mắt xuôi tay: “… Tôi là một chuyên gia nói dối có tổ chức, có chỉ đạo, suốt gần 30 năm trời, tôi quá rành 1001 kiểu nói dối mà chính bản thân tôi đã nói dối lem lẻm, nói dối cứ như chuyện thật, nói dối một cách tự nhiên đến mức trở thành nhiệm vụ hàng ngày. Ngay cả khi biết mình đang nói dối với đồng bào, nhưng vẫn cứ phải nói dối, vì không nói dối mà nói thật thì mất chiếc ghế, mất miếng cơm, thậm chí là mất mạng!”
Nhạc sĩ Tô Hải
“Trong lịch sử Việt Nam, chưa bao giờ trên đất nước này lại có một xã hội giáo dục cho công dân đừng sống trung thực, mà phải biết nói dối. Nói dối tỉnh bơ, nói dối không biết ngượng, nói dối càng giỏi càng đạt nhiều thành tích. Cuộc Nói Dối Vĩ Đại nhất là cuộc chiến tranh giải phóng Miền Nam khỏi tay đế quốc Mỹ Xâm Lược!
Sự Thật đã bị đánh tráo quá trắng trợn! Hàng triệu con người đã mất xác mà đến nay đa số vẫn chưa tìm ra được, hàng vạn thương phế binh của cả hai miền, hàng triệu gia đình mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất cha, chỉ vì Tổng Bí Thư Lê Duẫn đã từng nói rằng: “… Ta đánh đây là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc”….
Giáo Sư Nguyễn Thị Từ Huy
“Chính những người cộng sản đã nhìn ra rằng Chủ nghĩa cộng sản và sự dối trá là một; và để chúng ta thấy rằng dối trá là hiện tượng thuộc về bản chất của các xã hội cộng sản trên toàn thế giới. Sự dối trá ấy hoàn toàn không liên quan gì đến truyền thống dân tộc của chúng ta. Trái lại, sự dối trá nhập khẩu này đang làm biến dạng tính cách dân tộc của chúng ta.”
Nhà thơ Xuân Diệu
“Một trong những chiến lược quan trọng là giáo dục không đào tạo con người, nên rốt cuộc xã hội chúng ta chỉ có thần dân mà không có công dân”.
Giáo Sư Hoàng Tụy
“… Chúng ta đặt nặng quá mức số lượng bằng cấp để sớm đạt được chỉ tiêu 20.000 tiến sĩ, nhà trường đã vô tình trút vào xã hội mọi thứ rác rưởi độc hại là bằng cấp giả, bằng cấp dỏm, học giả… Ngày nay, môi trường quốc tế đã biến đổi cực kỳ sâu sắc, trong khi Việt Nam vẫn dựa vào kinh nghiệm giáo dục tư tưởng chính trị thời đấu tranh giành độc lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự giả dối lan tràn trong giáo dục tại Việt Nam”.
Nhà Giáo Thái Hạo
“Nhà giáo chúng tôi không được đứng thẳng để làm người, làm sao dạy học sinh làm người lương thiện được. Bởi, giáo viên phải ngoan ngoãn im lặng làm theo đảng, có ai đó trung thực thẳng thắn thì bị hành hạ, bị đuổi ra khỏi trường. Muốn yên thân thì phải hèn…”
Giáo Sư Đặng Hùng Võ
“Hơn nửa đời người gắn bó với ngành giáo dục, tôi thấy chính sách giáo dục đã khuyến khích sự gian dối ngay trong môi trường giáo dục bởi những thành tích ảo…
Giáo Sư Trần Phương
Đương nhiệm Chủ Tịch Hội Khoa Học & Kinh Tế Việt Nam, chủ tọa hội thảo góp ý dự thảo các văn kiện Đại Hội XI của đảng cộng sản Việt Nam. Sau khi diễn giải từng đoạn, ông nhấn mạnh: “Chúng ta tự lừa dối chúng ta, và chúng ta lừa dối xã hội …”
Ông Nguyễn Khắc Mai
Một thời là Vụ Trưởng Vụ Nghiên Cứu/ Ban Dân Vận trung ương, nói: “Hiện nay, tuy người ta không dám nói “chuyên chính vô sản” công khai, nhưng trong lòng họ vẫn cho rằng cái chính quyền này, thể chế chính trị này là “chuyên chính vô sản”. Chuyên chính vô sản nghĩa là gì? Nghĩa là một triết lý như Lê Nin khẳng định: Nó bất chấp luật pháp. Nó không cần luật pháp. Nó vượt qua luật pháp. Đấy là triết lý chuyên chính vô sản của Lê Nin”…..
Phạm Bá Hoa
(Trích Thư số 151 gởi NLQĐNDVN ngày 1/5/2024)
Be the first to comment