Lich sử dân tộc Việt Nam trải qua bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước song song với quá trình đó thì chữ viết cùa chúng ta cũng thay đổi qua các thời kỳ.
Tiếng Việt chúng ta ngày nay sử dụng bảng chữ cái tiếng Việt dựa trên hệ chữ Latinh để biểu thị các từ tiếng Việt có nguồn gốc từ tiếng Hán (từ Hán Việt), các từ tiếng Việt bản địa (từ thuần Việt) và các từ vay mượn tiếng nước ngoài khác như Pháp, Anh…
Trong thời cổ đại, tổ tiên của người Việt Nam được coi là những người nói ngôn ngữ Proto-Austroasiatic, có thể bắt nguồn từ nền văn hóa Đông Sơn cổ đại. Các nhà ngôn ngữ học hiện đại mô tả tiếng Việt đã mất đi một số đặc điểm hình thái và âm vị học Proto-Austroasiatic mà tiếng Việt gốc vốn có. Điều này đã được ghi nhận trong sự phân tách ngôn ngữ của tiếng Việt khỏi tiếng Việt-Mường khoảng một nghìn năm trước.
Chữ viết của chúng ta qua các thời kỳ:
- Chữ Hán:
Chữ Hán (漢) hay còn gọi là Chữ Nho (儒). Còn Chữ Hoa hay Tiếng Hoa thường được dùng để mô tả tiếng Quan Thoại, cũng như Tiếng Tàu cho tiếng Trung Quốc nói chung. Có thể trong thời kỳ cai trị của Trung Quốc từ năm 111 trước Công nguyên đến năm 905 sau Công nguyên, các ký tự Trung Quốc đã được sử dụng làm chữ viết chính thức của khu vực. Các văn bản địa phương viết bằng tiếng Hán có lẽ cũng bao gồm một số ký tự được điều chỉnh để thể hiện các âm nguyên Việt-Mường, thường là tên riêng hoặc địa danh Việt mà không có từ tiếng Hán tương đương. Theo một số học giả, việc áp dụng Chữ Hán hay Hán tự đã được bắt đầu bởi Shi Xie (137–226 sau CN). Chữ viết hoàn toàn bằng tiếng bản địa đầu tiên của người Việt được phiên âm bằng chữ Hán bắt đầu vào cuối đời Đường, khoảng thế kỷ thứ 9 bởi Liêu Hữu Phương.
Đến năm 1174, Chữ Hán đã trở thành chữ viết chính thức của triều đình, chủ yếu được sử dụng bởi chính quyền và giới trí thức, và tiếp tục đóng vai trò này cho đến giữa thế kỷ 19 dưới thời Pháp thuộc khi hệ thống chữ viết truyền thống bị bãi bỏ để thay thế bằng chữ quốc ngữ.
- Chữ Nôm:
Từ thế kỷ 12, sự thống trị của chữ Hán bắt đầu bị thách thức bởi chữ Nôm, một hệ thống chữ viết khác dựa trên chữ Hán để phiên âm các từ tiếng Việt bản địa, từ Nôm có nghĩa là Nam tức là chữ của người phương nam. Những chữ này thậm chí còn khó hơn cả chữ Hán. Chữ Nôm vay mượn chữ Hán về mặt ngữ âm và ngữ nghĩa để sáng tạo ra chữ mới, gọi là chữ giả tá có nghĩa là sự bắt chước có sáng tạo có thay đổi chứ không rập khuôn. Có 4 cách để tạo ra chữ Nôm từ chữ Hán:
Thứ nhất là mượn cả âm lẫn ý của chữ Hán.
Thứ hai mượn âm mà không mượn ý.
Thứ ba mượn ý mà không mượn âm.
Thứ bốn là tạo chữ mới bằng cách ghép chữ.
Chữ Nôm yêu cầu người dùng phải có kiến thức về chữ Hán, do đó chữ Nôm được sử dụng chủ yếu cho các tác phẩm văn học là chính (chẳng hạn như thơ của Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh quan…), trong khi hầu hết các bài viết và tài liệu chính thức khác tiếp tục được viết bằng chữ Hán cho đến thế kỷ 20.
- Quốc Âm Tân Tự:
Quốc Âm Tân Tự (國音新字) là một hệ thống chữ viết cho tiếng Việt được đề xuất vào giữa thế kỷ 19. Hai văn bản viết về loại chữ này (mỗi văn bản bốn trang) hiện lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm: Một bản cũ không ghi tên, và một bản gần đây hơn có tên là Quốc Âm Tân Tự (國音新字). Văn bản Quốc Âm Tân Tự không có thông tin nào cho biết cụ thể ngày tháng năm tác phẩm này được viết. Căn cứ vào lời tựa của tác phẩm, nét cuối của chữ “華” (Hoa) đã bị lược bỏ do kiêng đặt tên), có thể đoán rằng văn bản này được viết dưới thời vua Thiệu Trị (Hoàng đế). Mẹ của Thiệu Trị tên là “Hồ Thị Hoa” 胡氏華). Cuối lời nói đầu của văn bản có dòng “…
Quốc Âm Tân Tự là một loại chữ phiên âm được làm từ nét chữ Hán và chữ Nôm (tương tự Hiragana và Katakana của Nhật Bản). Theo cách phát âm của tiếng Việt, có 22 chữ “cán tự” 幹字 và 110 chữ “chi tự” 枝字 (“cán” là thân, “chi” là cành, “tự” là chữ). Cán tự dùng để ghi phụ âm đầu, chi tự để ghi vần. Mỗi ký tự được đặt tên bằng một chữ có vần “ông” với phụ âm đầu là phụ âm mà ký tự đó biểu thị, ví dụ chữ “đ” biểu thị phụ âm “đ” được đặt tên là “đông” (tương tự như ngày nay chữ Tiếng Việt gọi phụ âm “đ” là âm “đờ”).
Tác giả Quốc Âm Tân Tự đã dùng bốn loại nét: (一), (丨), (丶), (丿) (kể cả “㇏” là biến thể của “丶”) để tạo nét chữ. Mỗi ký tự (bao gồm tất cả các ký tự “thân cây” và “nhánh”) có tổng cộng bốn nét. Hầu hết các ký tự chỉ sử dụng hai hoặc ba loại nét, nhưng tổng số nét là chính xác bốn.
Quốc Âm Tân Tự sử dụng cách chia “thanh điệu” truyền thống, các thanh điệu được chia thành bốn loại: “bình” 平, “thượng” 上, “khứ” 去, “nhập” 入. Mỗi loại lại được chia thành hai độ “âm” 陰 và “dương” 陽. Tổng cộng có tám âm:
Âm bình hay yin ping 陰平: là “thanh ngang” như cách gọi ngày nay.
Dương Bình hay yang ping 陽平: là “thanh huyền” như cách gọi ngày nay.
Âm thượng hay yin shang 陰上: là “thanh hỏi” như cách gọi ngày nay.
Dương thượng hay dương thượng 陽上: là “thanh ngã” như cách gọi ngày nay.
Âm quá khứ hay âm qu 陰去: là âm “thanh sắc” của những từ mà khi viết bằng
Quốc Âm Tân Tự có thể viết theo chiều dọc hoặc chiều ngang như chữ Hán và chữ Nôm, và là một bộ chữ phiên âm do chính người Việt sáng tạo ra. Tiếc rằng Quốc Âm Tân Tự ra đời không đủ thời gian để hoàn thành và phổ biến rộng rãi như Kana ở Nhật Bản, vì tình hình chính trị xã hội Việt Nam lúc bấy giờ quá phức tạp do sự suy yếu dần của nhà Nguyễn và cuộc xâm lược của Pháp.
- Chữ quốc ngữ:
Vào nữa đầu thế kỷ 17, các thừa sai Dòng Tên từ Macao đã đến Đàng Trong và Đàng Ngoài của Đại Việt để truyền giáo. Ngày 18.1.1615, đoàn thừa sai dòng Tên do Linh mục Buzomi làm trưởng đoàn đã đặt chân lên Cửa Hàn (Đà Nẵng). Tháng 7 năm 1618, nhờ sự giúp đỡ của Khám lý Qui Nhơn, cư sở đầu tiên của các thừa sai được thành lập tại Nước Mặn. Lúc bấy giờ tại cư sở này có các Kitô hữu: Linh mục Buzomi (Ý), Linh mục Pina (Bồ), Linh mục Borri (Ý), tu huynh Diaz (Bồ) và chú Augustinô (Việt). Trong năm 1618, tại cư sở Nước Mặn, một thanh niên mười sáu tuổi, tên thánh rửa tội là Phêrô, giúp các thừa sai biên dịch sang tiếng Nôm một sách bổn giáo lý. Năm 1619, các thừa sai Dòng Tên ở Nước Mặn là những người đầu tiên chuyên tâm nghiên cứu ngôn ngữ “địa phương” hơn bất cứ điều gì khác. Tại cư sở này, các thừa sai đã lập một trường học và tìm được một người thầy thông thạo Hán Nôm để dạy ở trường và với mục tiêu là ông sẽ giúp các thừa sai trong việc nghiên cứu và sáng tạo ngôn ngữ, hoặc dịch các tài liệu của các thừa sai sang Hán Nôm.
a/ Các thừa sai làm việc ở Đàng trong:
Cũng chính sử gia Linh mục Daniello Bartoli cho biết Linh mục Buzomi, Linh mục Francesco de Pina và Linh mục Borri là các vị thừa sai ở Đàng Trong đã nắm bắt được ngôn ngữ thông dụng của địa phương, có thể thuyết giáo, trao đổi với các nhân sĩ và các vị Sư, trong các việc riêng tư hay trong nơi công hội.
Trong thư viết năm 1626, Linh mục Buzomi đã viết một vài chữ Quốc ngữ. Linh mục Đỗ Quang Chính nhận định về những chữ Quốc ngữ của Linh mục Buzomi trong thư nầy: “Nhìn vào những chữ Quốc ngữ của Buzomi, mặc dầu ít, nhưng đã thấy tiến triển, nếu đem so sánh với lối viết của João Roiz, C. Borri, de Rhodes, Gaspar Luiz và Antonio de Fontes từ năm 1626 trở về trước”. Quả vậy, Linh mục Buzomi viết một thư tại Nước Mặn đề ngày 20.05.1622, trong thư Linh mục viết Thienchu thay vì Thien Chu như thư viết năm 1626, cách viết theo lối cách ngữ giống như ngày nay.
Linh mục Pina làm việc tại Đàng Trong (1617-1625). Linh mục được các thừa sai đồng nghiệp đánh giá là người có kỹ năng tốt về ngôn ngữ. Báo cáo thường niên năm 1619 cho biết Linh mục Pina vừa mới nắm bắt được một số vốn từ vựng tiếng Nôm. Trong một bức thư được thảo năm 1623, Linh mục Pina cho biết: “Về phần con, con đã soạn một tập nhỏ về chữ viết và về các cung điệu của ngôn ngữ này; con hiện đang bắt tay vào ngữ pháp. Tuy nhiên, mặc dù con cũng đã tập hợp những câu chuyện thuộc nhiều thể loại khác nhau để ghi trích dẫn của các tác giả, hầu xác định ý nghĩa của các từ ngữ và các mẹo luật ngữ pháp, thì cho đến giờ này con vẫn còn phải nhờ một người đọc để con ghi ra bằng mẫu tự Bồ Đào Nha, hầu cho những người của chúng ta sau này có thể đọc và học thuộc lòng, như từng học Cicéron và Virgile”.
Sau khi cập bến Cửa Hàn được vài tháng, Linh mục Borri chỉ làm việc tại cư sở Nước Mặn từ tháng 7 năm 1618-1622. Linh mục Borri đã để lại một số câu từ “Quốc ngữ tiền de Rhodes” trong tác phẩm ”Relatione della nuova missione delli PP. della Compagnia di Giesù al Regno della Cocincina – Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong”.
Linh mục Léopold Cadière nhận định: “Dù trải qua thời gian ít ỏi ở Việt Nam, Linh mục Cristoforo Borri đã tạm nắm bắt được ngôn ngữ xứ nầy. Điều nầy được thể hiện qua những từ và những câu tiếng Việt trong bản tường trình của ông”.
“Nơi bản tường trình, ông để lại cho chúng ta những tiêu bản quý báu về những hình thái tiên chinh của chữ Quốc ngữ, một thứ chữ Quốc ngữ trước thời Linh mục de Rhodes. Những bút tích này của Linh mục Borri quả là một bổ ích lớn lao cho những ai khi đi sâu nghiên cứu về sự hình thành chữ Quốc ngữ“.
Trong khi nghiên cứu và phiên dịch tác phẩm của Linh mục Borri, dịch giả Hồng Nhuệ đã bộc bạch: “Có một vài câu chữ Quốc ngữ trong bản tường thuật của ông cho chúng ta biết: ngay từ những năm 1618-1620 đã có một khởi đầu hình thành thứ chữ nầy… “.
Để tăng số thừa sai cho việc truyền giáo, tháng 12 năm 1624, Tỉnh Dòng ở Macao phái thêm 6 thừa sai đến Đàng Trong: Gabriello de Matos, Antonio de Fontes, Manuello Gonzalez Alexandre de Rhodes, Gaspar Luiz, Girolamo Majorica. Trong số các thừa sai này, Gabriello de Matos và Manuello Gonzalez về Hội An; Alexandre de Rhodes và Antonio de Fontes học tiếng Việt với Linh mục Pina tại Dinh Chiêm; Gaspar Luiz và Girolamo Majorica đến Nước Mặn học tiếng Việt với Linh mục Buzomi.
Hiện nay được biết một số bút tích của các Linh mục Girolamo Majorica, Gaspar Luiz, Antonio de Fontes và Alexandre de Rhodes.
Linh mục Girolamo Majorica làm việc tại Đàng Trong (1624-1628) và Đàng Ngoài năm (1632-1656). Linh mục là một chuyên viên Quốc ngữ Nôm. Ông đã viết khoảng 45 tác phẩm lớn nhỏ bằng chữ Nôm. Hiện nay, Thư viện Quốc gia Paris lưu trữ 15 cuốn với 4.200 trang.
Linh mục Gaspar Luiz làm việc tại Đàng Trong (1624-1629; 1632-1639). Trước khi đến Đàng Trong, Linh mục Gaspar Luiz đã viết một bản báo cáo tổng hợp đề ngày 17.12.1621 tại Macao. Trong báo cáo này có vài danh từ Việt chỉ địa danh hay chức vụ. Tuy nhiên đó là những từ sao y bản chính của các thừa sai từ Đàng Trong gởi về Macao.
Sau hai năm ở Nước Mặn, Linh mục Gaspar Luiz viết bản báo cáo đề ngày 1.1.1626 tại Nước Mặn. Trong bản báo cáo này đã có nhiều chữ “Quốc ngữ tiền de Rhodes” chẳng hạn: (Quinhin – Qui Nhơn; Bendá – Bến Đá, [ngày nay thuộc thôn Bình Đê, xã Hoài Châu Bắc, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định])
Ngoài ra khi làm việc tại Đàng Trong ông đã soạn một cuốn từ vựng tiếng Việt nhưng đã bị mất vì chiếc tàu đưa cuốn này từ Đàng Trong về Macao đã bị đắm biển.
Linh mục Antonio de Fontes làm việc tại Đàng Trong (1624-1631) và Đàng Ngoài một vài năm, sau trở lại Đàng Trong và rời khỏi Đàng Trong năm 1639). Ngày 1.1.1626, Linh mục Antonio de Fontes viết bản báo cáo tại Hội An, trong đó có một số chữ “Quốc ngữ tiền de Rhodes”.
Linh mục Alexandre de Rhodes làm việc tại Đàng Trong (1624-1626) ra vào Đàng Trong 4 lần (1640-1645); Đàng Ngoài (1627-1630). Linh mục Alexandre de Rhodes để lại rất nhiều bút tích về chữ Quốc ngữ. Căn cứ vào những bút tích của Linh mục Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) và Linh mục Buzomi, Linh mục Đỗ Quang Chính nhận xét: “Nếu chúng ta so sánh lối viết chữ Quốc ngữ của Đắc Lộ năm 1631 với lối viết của Buzomi năm 1626, thì hai lối viết gần giống nhau, nghĩa là trình độ gần như nhau”.
Chữ Quốc ngữ của Linh mục Alexandre de Rhodes còn được thể hiện trong các thư báo cáo và các tác phẩm của ngài. Đáng chú ý ba tác phẩm Linh mục Alexandre de Rhodes cho xuất bản tại Roma năm 1651: Cathechismus … in octo dies diuisus (Phép Giảng Tám Ngày – một cột bằng chữ Latinh, một cột bằng chữ Quốc ngữ) và Tự điển Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (Việt-Bồ-La), trong đó, tác phẩm “Linguae Annamiticae seu Tunchinensis Brevis Declaratio – (Mô tả ngắn gọn về ngôn ngữ Annam hay Đàng Ngoài” còn gọi là cuốn văn phạm Việt Nam đầu tiên) được in chung với Tự điển.
b/ Các thừa sai làm việc tại Đàng Ngoài:
Ngoài các Linh mục đầu tiên làm việc tại Đàng Trong, sau đó làm việc tại Đàng Ngoài như đã nói trên, đáng chú ý hai thừa sai chỉ làm việc tại Đàng Ngoài trong giai đoạn 1629-1651:
Linh mục Gaspar d’Amaral làm việc ở Đàng Ngoài (1629-1630; 1631-1638). Trong bảy năm truyền giáo, Linh mục d’Amaral đã soạn cuốn từ điển Việt-Bồ (Diccionário Annamita-Português). Ngoài ra Linh mục d’Amaral còn để lại rất nhiều chữ Quốc ngữ trong hai bản báo cáo hằng năm được viết vào năm 1632 và 1636. Những chữ Quốc ngữ này đã viết theo lối cách ngữ (đơn âm), có dấu thanh điệu như tiếng Việt ngày nay.
Linh mục António Barbosa đến Đàng Ngoài vào cuối tháng 4 năm 1636. Vì sức khỏe, vào tháng 5 năm 1642 ngài trở về Ma Cao. Ngài qua đời năm 1647, trên đường từ Macao đến Goa. Trong 6 năm ở Đàng Ngoài, Linh mục Barbosa đã soạn cuốn từ điển Bồ-Việt (Diccionário Português-Annamita).
c/ Vai trò người Việt trong việc sáng tạo chữ Quốc ngữ trong giai đoạn 1615-1651
Việc khởi đầu sáng tạo chữ Quốc ngữ là một sáng kiến của các thừa sai Dòng Tên phát xuất từ nhu cầu truyền giáo cho người Việt. Công cuộc khởi đầu ấy là công việc được đóng góp từ công sức của nhiều người, trong đó thành phần chủ chốt đầu tiên là số thừa sai Dòng Tên làm việc tại cư sở Nước Mặn ở giai đoạn giữa năm 1618 đến đầu năm 1620 gồm có Linh mục Buzomi, Linh mục Pina, Linh mục Borri. Ngoài những nỗ lực của các thừa sai còn phải kể đến sự tham gia và đóng góp của những người Việt Nam.
Rất tiếc tên tuổi của người Việt cộng tác với các thừa sai trong việc sáng tạo chữ Quốc ngữ trong giai đoạn khởi đầu nầy không được lưu lại đầy đủ. Dẫu sao, chúng ta cũng nêu lên một vài chứng từ những người đầu tiên tiêu biểu ở giai đoạn đầu nầy:
Người đầu tiên phải kể đến là Cống Quận công Trần Đức Hòa, Khám lý phủ Qui Nhơn. Ông cưu mang, đùm bọc các thừa sai tại cư sở Nước Mặn, cư sở đầu tiên của các thừa sai Dòng Tên trên đất Đại Việt. Ông lo cho những người nầy có điều kiện tốt nhất để khởi động đi tìm con chữ mà hôm nay chúng ta được thừa hưởng. Vì vậy danh tính của ông không thể thiếu trong danh sách những người đầu tiên chúng ta ghi ơn.
Những vị Sư như thư Linh mục Pina viết năm 1623: “Tại Pulo Cambi, Cha Buzomi có được hai hay ba ông Sư – bonzo giúp cha làm mọi việc. Như thế, nếu chuyện gì xảy ra, nếu có việc phải giải quyết hoặc những thông điệp quan trọng, cha phái người thông ngôn hoặc một trong các ông Sư; khi giờ giáo lý kết thúc, cha ra về, và họ thì ở lại hoặc để ôn tập, hoặc để chuyện trò với các dự tòng”.
Người thanh niên mười sáu tuổi có tên thánh bổn mạng là Phêrô, người giúp Linh mục Pina dịch sách giáo lý tại Nước Mặn vào năm 1618.
Anh Augustinô – thông ngôn người Đàng Trong của Linh mục Buzomi, một ngôi sao tại Nước Mặn.
Chú Anrê, người đã được Linh mục Pina đào tạo và là người đã giúp Linh mục Marques học tiếng Việt tại Dinh Chiêm.
Những người buôn bán và bà con nông dân Việt Nam ở những địa phương mà các thừa sai được tiếp xúc hằng ngày.
Những thương nhân với vai trò thông ngôn dù chỉ biết lèo tèo một số từ cần thiết trong giao dịch thương mại.
Cậu bé mà Linh mục Alexandre de Rohdes đã viết: “Người giúp tôi đắc lực là một cậu bé người xứ này. Trong ba tuần lễ đã dạy tôi các dấu khác nhau và cách đọc hết các tiếng. Cậu không hiểu tiếng tôi mà tôi thì chưa biết tiếng cậu, thế nhưng, cậu có trí thông minh biết những điều tôi muốn nói. Và thực thế, cũng trong ba tuần lễ, cậu học các chữ của chúng ta, học viết và học giúp lễ nữa. Tôi sửng sốt thấy trí thông minh của cậu bé và trí nhớ chắc chắn của cậu. Từ đó cậu đã làm thầy giảng giúp các cha. Cậu đã là một dụng cụ rất tốt để tôn thờ Chúa trong giáo đoàn và cả ở nước Lào, nơi cậu hoạt động trong nhiều năm với thành quả mỹ mãn, cậu rất mến thương tôi nên đã muốn lấy tên tôi”.
d/ Vấn đề ông tổ chữ Quốc ngữ
– Về Linh mục Alexandre de Rhodes
Đầu thế kỷ XX, chữ Quốc ngữ bắt đầu được sử dụng chính thức ở Việt Nam. Việc truy tìm gốc gác lịch sử của nó được chú ý. Căn cứ về mặt ngữ học, ba tác phẩm của Linh mục Alexandre de Rhodes xuất bản năm 1651 được đánh giá là một thành tựu ghi dấu sự ra đời của chữ Quốc ngữ. Từ đánh giá này, Linh mục Alexandre de Rhodes được xem như ông tổ chữ Quốc Ngữ.
Tháng 1 năm 1961, Linh mục Tiến sĩ Nguyễn Khắc Xuyên đã viết trong Lời giới thiệu tác phẩm Phép Giảng Tám Ngày: “Khi tặng cho giáo sĩ Alexandre de Rhodes cái danh hiệu là “thủy tổ chữ quốc ngữ”, chúng ta thấy huy hiệu ấy sáng ngời hơn, phong phú hơn, bởi vì đã tan biến nhiều thành kiến cũng như nhiều sai lạc khi người ta bàn giải về sự nghiệp văn hóa của ngài“.
Tuy nhiên, trong lời tựa tập sách Giáo sĩ Đắc Lộ và tác phẩm chữ Quốc ngữ đầu tiên, được Tinh Việt Văn Đoàn xuất bản tại Sài Gòn năm 1961, Nguyễn Khắc Xuyên – Phạm Đình Khiêm ghi nhận: “Việc sáng chế chữ Quốc ngữ là một công trình tập thể của một số giáo sĩ người Âu, đa số là Bồ Đào Nha, với sự tham gia trực tiếp của một số người Việt dạy tiếng mẹ đẻ cho các giáo sĩ” và Đắc Lộ “chiếm công đầu trong việc hoàn thành và phổ biến lối phiên âm Việt ngữ bằng mẫu tự La-mã, quen gọi là Chữ Quốc ngữ”.
Quả vậy, từ đầu thập niên 60 của thế kỷ trước, các học giả đã nhìn nhận lại: Việc sáng tạo ra chữ Quốc ngữ là cả một quá trình, là công việc tập thể của nhiều giáo sĩ phương Tây cùng những người Việt. Đó là một công việc thật sự giàu tinh thần khoa học. Alexandre de Rohdes đến Đàng Trong muộn (1624), không phải là người đầu tiên dùng mẫu tự gốc Latinh ghi âm tiếng Việt, nhưng là người có công tập đại thành – tổng hợp và hệ thống hóa những kết quả sáng tạo của những thừa sai đi trước như chính ông đã nói rõ trong lời tựa của Từ điển Việt-Bồ-La: “Trong công cuộc này, ngoài những điều mà tôi đã học được từ chính người bản xứ trong suốt gần mười hai năm, thời gian mà tôi lưu trú tại hai xứ Đàng Trong và Đàng Ngoài, thì ngay từ đầu tôi đã học với cha Francisco de Pina người Bồ Đào Nha, thuộc Hội dòng Chúa Giêsu [Dòng Tên] rất mọn hèn của chúng tôi, là thầy dạy tiếng, người thứ nhất trong chúng tôi rất am tường tiếng này, và cũng là người thứ nhất bắt đầu giảng thuyết bằng ngôn ngữ đó mà không dùng thông ngôn, tôi cũng sử dụng những công trình của nhiều cha khác cùng Hội dòng, nhất là của cha Gaspar do Amaral và cha Antonio Barbosa, cả hai người đều đã biên soạn cho mỗi người một cuốn từ điển: Cha Gaspar do Amaral khởi đầu từ tiếng An Nam [từ điển Việt–Bồ], Cha Antonio Barbosa khởi đầu từ tiếng Bồ Đào [từ điển Bồ–Việt], nhưng cả hai ông đều đã chết sớm. Sử dụng công khó của hai ông, tôi còn thêm tiếng Latinh theo lệnh các vị Hồng y rất đáng kính…”
– Về Linh mục Francisco de Pina
Mặc dù, việc sáng tạo ra chữ Quốc ngữ đã được các học giả xác định là cả một quá trình, là công việc tập thể của nhiều giáo sĩ phương Tây cùng những người Việt.
Thế nhưng, sau nghiên cứu của Linh mục Roland Jacques (2002, 2004, 2012), vai trò của người Bồ được đề cao trong việc sáng tạo chữ Quốc ngữ, và chính Linh mục Roland Jacques cho rằng Linh mục Francisco de Pina là “ông tổ” của chữ Quốc ngữ. Gần đây, trong cuộc Hội thảo tại Lisbon, Portugal vào ngày 24.10.2019, Linh mục R. Jacques kết thúc bài tham luận của mình: “Ngạn ngữ Việt Nam nói “uống nước nhớ nguồn”. Tất cả những ai yêu thích ngôn ngữ Việt Nam, và ngưỡng mộ những phẩm chất không thể so sánh của nó, phải biết cách tỏ lòng tôn kính đối với Francisco de Pina, ông tổ của chữ Quốc ngữ”.
Tựu trung Linh mục Roland Jacques đã dựa vào những điểm sau để cho rằng Pina là “Ông tổ chữ Quốc ngữ”:
– Pina được các nhà truyền giáo cùng thời ghi nhận là người nói tiếng Việt giỏi nhất trong giáo đoàn truyền giáo.
Thực ra nói sành tiếng Việt với việc biên soạn ngữ pháp và từ điển là hai lĩnh vực hoàn toàn khác nhau.
– Bức thư được cho là của Pina viết năm 1623 có chép: “Về phần con, con đã soạn một tập nhỏ về chữ viết và về các cung điệu của ngôn ngữ này; con hiện đang bắt tay vào ngữ pháp…”. Dựa vào nội dung này, Linh mục Roland Jacques cho rằng “Manuductio ad Linguam Tunckinensem – Bước đầu học tiếng Đàng Ngoài” được soạn/ phát triển dựa trên cơ sở văn bản ban đầu của Pina. Và dựa vào bản văn Manuductioad Linguam Tunckinensem, R. Jacques xác định: ”Ta đã thấy nguồn tài liệu tham khảo để viết ra tác phẩm này được quy cho là Fransisco de Pina” . Thực ra cho đến nay, hình thức và nội dung của “tập nhỏ” được đề cập trong thư 1623 chưa hề có nhà nghiên cứu nào đã tìm thấy, ngay cả Linh mục R. Jacques.
Gần đây năm 2019 Tiến sĩ Phạm Thị Kiều Ly có bài “The True Editor of the Manuductio ad linguam Tunkinensem – Nhà biên soạn thực sự của Manuductio ad linguam Tunkinensem”. Tiến sĩ Kiều Ly không chấp nhận quan điểm Linh mục R. Jacques về Manuductio ad linguam Tunkinensem, một bản thảo khuyết danh ở thế kỷ 17 hay 18 với những chứng cứ khoa học:
– Linh mục Pina chỉ làm việc tại Đàng Trong (1617-1625), học và nghiên cứu ngôn ngữ tại Đàng Trong, vùng phương ngữ có năm thanh điệu so với Đàng Ngoài có sáu thanh điệu. Như vậy Pina không thể biên soạn sáu thanh điệu cho tiếng Đàng Ngoài như trong Manuductio ad linguam Tunkinensem, một phương ngữ mà Pina chưa một lần tiếp xúc.
– Linh mục R. Jacques cho rằng Linh mục Alexandre de Rhodes biên soạn “Linguae Annamiticae seu Tunchinensis Brevis Declaratio” và tác giả “Manuductio ad Linguam Tunckinensem” biên soạn độc lập nhưng cùng dùng một bản quy chiếu là văn phạm của Linh mục Pina. Sau khi đưa ra những bằng chứng, Tiến sĩ Kiều Ly kết luận: “Tất cả các dữ liệu ngôn ngữ và lịch sử được trình bày ở trên [theo bài của tác giả] chứng minh rằng tác giả của Manuductio đặt nền tảng bản thảo của chính ông trên bản ngữ pháp của Alexandre de Rhodes. Ngoài ra, không cần thiết phải tranh luận về tình huống thiếu thuyết phục, khó có thể xảy ra rằng hai tác giả làm việc độc lập nhưng sử dụng cùng một tài liệu ngữ pháp được giả định do Francisco de Pina biên soạn”.
Thật vậy, trong khi Dòng Tên chưa hiện diện ở Đàng ngoài, Pina chưa đến Đàng Ngoài, R. Jacques cho là Manuductio ad Linguam Tunckinensem (Bước đầu học tiếng Đàng Ngoài) “được soạn/phát triển dựa trên cơ sở văn bản ban đầu của Pina và nguồn tài liệu tham khảo để viết ra tác phẩm này được quy cho là Fransisco de Pina” là không có cơ sở. Đến nay các nhà nghiên cứu vẫn chỉ đưa ra những giả định về tác giả của Manuductio ad Linguam Tunckinensem. Hiện vẫn chưa tìm thấy bất cứ nguồn sử liệu hay bằng chứng khoa học nào để xác định bản đầu tiên là của Linh mục Francisco de Pina viết năm 1623.
Kết luận
Chữ Quốc ngữ là một thành tựu văn hóa đã bén rễ sâu rộng trong đời sống xã hội Việt Nam. Khởi đầu là sự dày công mày mò của các thừa sai Dòng Tên làm việc truyền giáo ở Đại Việt cách nay hơn 400 năm. Với sự trợ giúp của người Việt, các thừa sai sáng kiến dùng mẫu tự gốc Latinh để ghi âm tiếng Việt. Lúc khởi đầu, mỗi người ghi âm theo cách cảm nhận tự nhiên của mình, trải qua thời gian việc ghi âm ấy dần dần được chắc lọc, đi vào điển chế và hoàn thiện. Đến nay vấn đề đã ngã ngũ rằng: Chữ Quốc ngữ là một công trình tập thể, trong đó có cả người phương Tây và cả người Việt. Không thể có “Ông tổ duy nhất” của chữ Quốc ngữ.
Nguyễn Đức Thành (Sưu tầm và biên soạn)
Theo diendantheky.net ngày 13 tháng 10, 2023
Be the first to comment