Nguyễn Thanh Lai

Chương 1

Tay công an hất hàm về phía anh thanh niên:
– Đi về mày đừng cà chớn, bị hốt lần nữa là chết mẹ mày với tao

Giọng nói miền Bắc đánh thức người thanh niên đang mơ mơ màng màng. Anh vội vàng đứng dậy quay gót không quên nhoẻn miệng chào:
– Cám ơn đồng chí.
– Biến!! ai đồng chí với mày?

Viên công an cáu kỉnh phảy tàn thuốc lá đang hút dở về phía cửa xua như xua ruồi. Không ai trong cái đồn công an ở chợ cảm tình với người thanh niên vừa được thả. Phần lớn tại màu da đen và mái tóc quắn rất đặc điểm của dân Phi Châu khác hẳn người bản xứ. Anh con lai có nửa phần máu da đen hậu quả câu chuyện ngang trái giữa cô gái miền Nam nào đó và một anh lính Hoa Kỳ trong số nửa triệu quân Hiệp Chúng Quốc có mặt ở VN thời chiến tranh. Chàng Mỹ da đen để lại trong lòng người thiếu nữ cái bào thai oan nghiệt rồi leo lên máy bay về nước.

Có lẽ cũng chẳng tình cảm gì giữa cặp trai gái (không biết sao dân Việt Nam ít cảm tình với da đen, chắc bởi ảnh hưởng tàn ác của lính gạch mặt trong quân đoàn Lê Dương thời Pháp thuộc). Người ta đoán cô gái chắc là gái quê vì chiến tranh nên trốn gia đình lên Sài Gòn tìm kế mưu sinh. Cuối cùng may mắn (hay tai hoạ) xin vào làm dọn dẹp trong một khách sạn của quân đội Mỹ. Mỹ ở khách sạn hẳn thuộc giới sĩ quan và trong một phút say rượu nhớ nhà thấy cô bồi phòng nhỏ nhắn nhút nhát đã đè con người ta xuống tâm sự!!!

Mang bầu với một lính Mỹ da đen thì gan bằng trời cũng không dám trở về quê. Thời đó người Việt Nam bị ảnh hưởng quá nặng văn hoá Tàu, tôn thờ mấy ông TỬ (đặc biệt là Khổng Tử) lên hàng thánh nên nếu có một đứa con gái lấy chồng ngoại quốc thì coi như nhục (thiếu điều đội quần lên đầu) nói gì tới chửa hoang mà lại chửa hoang với Mỹ Đen. Người con gái nào rơi vào trường hợp này tốt nhất coi như mình không có cha mẹ, bà con thân thuộc gì và khôn hồn đừng bao giờ vác mặt về quê hương làng xóm – kể cả khi cha mẹ qua đời – nếu không muốn bị cạo đầu bôi vôi.

Bà mẹ của anh thanh niên dù sao vẫn còn chút lương tâm không nở phá thai giết chết đứa con ruột của mình nên đã đơn thân độc mã bươn chải giữa Sài Gòn hoa lệ cố gắng sống. Người Sài Gòn không ghét hay kỳ thị ai hết nên sẵn lòng giang tay ra giúp đỡ. Bà Sáu cho lon gạo, ông Tư chở đi nhà bảo sanh khám thai không tính tiền, vợ chồng anh chị An cảnh sát nhét phong bì đựng vài trăm qua kẹt cửa mà vô tình người đàn bà cô quả thấy được. Không đêm nào cô không khóc vì xúc động.

Chui rúc trong một căn phòng nhỏ xíu cô ráng sắm cho mình xe thuốc lá lẻ bán kiếm sống. Thời gian càng lâu bào thai càng lớn cô bày hàng một ngày nghỉ ba ngày. Bà con hàng xóm nhất là bà Sáu chạy qua chạy lại như má ruột chăm sóc con đẻ của mình. Bà cứ khuyên nhủ:
– Đừng khóc nhiều không tốt cho đứa nhỏ!!

Bà mua cho cô chai Nhị Thiên Đường, xức lên trán lên ngực bụng để tránh gió máy, nấu cháo cho cô ăn. Nhiều lần cô ôm bà khóc nức nở:
– Bà Sáu ơi con nhớ má con quá!!!

Và những lúc như thế bà lại nhắc:
– Đừng khóc nhiều không tốt cho đứa nhỏ!!

Hồi đó trong xóm có anh lính Biệt Động Quân hay lấy cớ mua thuốc lá lẻ rồi quên tiền thối. Thỉnh thoảng anh mua cho cô vài trái cam, ổ bánh mì thịt để trên xe thuốc rồi bỏ đi trước khi cô kịp từ chối. Anh nói:
– Chị Hai cứ ăn đi mà giữ sức khoẻ cho em bé.

Hôm xe nhà binh chở quan tài anh về trước ngỏ, cô té xỉu, khi tỉnh lại – nhờ bà con giựt tóc mai – cô chợt nhớ mình chưa có dịp cám ơn và hỏi thăm tên tuổi anh.

Chiến tranh mà!! thanh niên chết hàng ngày cho nên sau đó rồi cô cũng nguôi ngoai. Cô lại tiếp tục đẩy xe thuốc lá lẻ ra ngoài ngỏ mặc dù bụng đã lớn vượt mặt, có bữa mệt quá hàng xóm thấy chuyện lại hô hoán nhau vực cô về nhà rồi chỉ định thằng Tèo con ông Ba thợ mộc ngồi thế chỗ cho đến tối dọn dẹp và giao nộp tiền bán trong ngày. Tèo không tính công nhưng sung sướng vì làm được việc thiện mà cô giáo Thanh dạy trong trường. Những hôm đó bà Sáu dẹp hàng về sớm lo coi sóc và nấu miếng cháo thịt có nhiều gừng (chị Hai thớt heo biếu ba trăm gram) cho “con nhỏ ăn ấm bụng, tội nghiệp!!”

Tình cảm dân nghèo lao động trong một con hẻm với nhau dù không họ hàng gì, làm ấm lòng bà mẹ trẻ. Cô ngày nào cũng nhớ má muốn đứt ruột, nước mắt cứ trào ra mỗi bữa cơm nhưng không gom nổi can đảm mua vé xe về quê. Chưa kịp báo hiếu lại mang cái bụng chửa thè lè không có chồng bên cạnh thì chỉ mang nhục chớ ích lợi gì mà về. Cứ nhìn bà Sáu là nhớ má quay quắc. Nhớ những bữa má nấu canh chua, mắm ruốc xào chấm rau đồng ăn quên thôi, nhớ má nhai trầu nhổ phẹt phẹt, xịt nước tắm heo, nhớ ôm eo má, hôn má thơm mùi ngai ngái trầu cau. Nhớ chết được!!

Vậy mà chưa bao giờ cô nghĩ tới cha đứa nhỏ, người đã gieo mầm oan nghiệt vào đời cô. Cô chỉ mang máng về hình dáng một chàng trai da đen cao ráo lịch sự, ăn nói nhỏ nhẹ nhưng không hiểu anh nói gì. Anh mang trên cổ áo hai gạch bạc liền nhau. Cô từng dọn dẹp phòng anh vài lần, riêng hôm đó cô thấy anh ngồi uống rượu một mình hai tay ôm đầu khóc. Gặp cô anh nói một tràng dài như muốn kể lể chuyện gì, rồi anh ôm lấy cô nhẹ nhàng. Cô chợt cảm thấy mình trở nên nhỏ bé trong vòng tay anh, cơ thể bị tê liệt rồi không biết chuyện gì xảy ra. Sau đó cô sợ hãi ôm quần áo chạy ra khỏi phòng, bỏ hẳn việc làm không bao giờ trở lại nữa. Hai tuần sau cô thấy trong mình hơi khác lạ, kinh nguyệt không có và cô nhận ra sự thật. Tháng đó cô không dám gởi tiền về cho ba má như mọi khi.

Đủ ngày đủ tháng, chiều hôm đó cô nghe bụng đau râm râm, sợ quá cô gọi thất thanh:
– Bà Sáu! bà Sáu

Cũng may bà Sáu hôm đó về sớm nghe tiếng réo hớt hơ hớt hải chạy sang liền. Bà nhìn hiện trường rồi lập tức gọi ngay chú Tư xích lô máy. Trời thương nên ai cũng ở nhà, mấy người hàng xóm xúm lại phụ một tay đỡ cô lên xe rồi chú Tư chở bà Sáu và cô trực chỉ bảo sanh viện Từ Dũ. Vài tiếng đồng hồ sau thằng Lai ra đời …

Gọi nó là thằng Lai thật phải đạo, tóc không nhiều mà quăn tít, da đen bóng không giống mẹ nhiều tại di truyền của cha mạnh quá lấn át hết. Thằng nhỏ không khóc cô y tá phải vỗ đít nó bốp bốp mấy cái mới chịu oe oe chút xíu rồi lăn ra ngủ. Bà Sáu một tay chăm đứa nhỏ trong khi mẹ nó thiếp đi vì kiệt sức. Trong thâm tâm bà già thấy tuy lai đen mà thằng nhỏ nhìn dễ thương. Bà tính khen ”coi bộ cũng sáng sủa dữ” nhưng chợt nhớ tới màu da của nó nên ngưng ngang.

Về nhà bà lại một tay lo cho mẹ thằng Lai nằm than. Hàng xóm ai rảnh thì phụ hợ nhau thay tã, nấu thịt kho tiêu cho bà đẻ, chẳng ai phiền hà gì hết trái lại còn có vẻ khoái trá. Như thằng Tèo cứ xin phép bà sáu cho được ẵm em bé một chút thôi ”Con ẵm chắc tay lắm, bá Sáu đừng lo”. Thấy “con ếch” Tèo ẵm ”con nhái” Lai, bà cũng lo, mắt cứ chăm bẵm theo dõi sợ nó xẩy tay thì mệt.

Hôm làm khai sanh cho thằng nhỏ bà đứng ra lo hết, nhưng đều hỏi ý kiến người mẹ muốn khai tên con là gì. Thằng nhỏ mang họ Nguyễn của mẹ còn tên thì cứ theo màu da mà đặt. Cuối cùng thằng công dân mới tinh của cái xóm nhỏ nghèo mà đầy nghĩa tình mang tên đầy đủ là Nguyễn Thanh Lai (Thanh lấy từ chữ lót của ông ngoại nó).

Thằng Lai dễ nuôi dễ sống không quấy rầy gì mẹ nhiều. Nó cứ bú no rồi ngủ không khóc đêm, không quậy phá. Thấy mẹ nó ốm yếu hàng xóm (phần chắc là vợ chồng anh chị An cảnh sát không có con) mua cho vài hộp sữa Ông Thọ dậm thêm.Thằng Lai chẳng dị ứng gì hết quất láng nhờ vậy càng ngày càng tròn.

Ban ngày mẹ nó trùm chặt đem theo để kế bên thùng thuốc lá lẻ. Nó đói thì cứ vạch vú ra cho bú, bú no lại lăn ra ngủ. Dạo này mẹ nó nấu thêm xôi đậu phọng và khoai lang khoai mì luộc. Cực quá khiến cơ thể ngày càng gầy rạc, nhưng phải chịu chứ biết sao. Nhiều lúc muốn liều ẵm con về quê mà không nở làm ba má buồn. Cũng có khi muốn bỏ con cho Cô Nhi Viện nhưng cứ nhìn tay chân con mặt mũi con lại đứt ruột.

Một buổi sáng bà mẹ trẻ vươn mình ngồi dậy mà không nổi. Thân thể tay chân cứng đờ, dở không lên, cô hốt hoảng. Hàng xóm xúm lại cạo gió giật tóc mai mà không đỡ, cuối cùng chú Tư xích lô máy chở thẳng vào nhà thương. Chú Tư phụ với bà Sáu ở lại chăm sóc cho tới khi y tá bệnh viện gọi trên máy phóng thanh ”Ai là thân nhân của Nguyễn Thị Được lên văn phòng gấp”, cả hai cùng hồi hộp không biết chuyện gì xảy ra. Cho tới khi nhận được tin “Chúng tôi rất tiếc người bệnh tới nhà thương trễ quá!!” thì bà Sáu té xỉu cái đùng! Chú Tư thì khóc rối trí không biết phải giải quyết làm sao với người chết và người ngất.

Cả xóm hùn nhau lo ma chay cho mẹ thằng Lai mà tới bây giờ ngoài bà Sáu mới biết tên thật là Nguyễn Thị Được. Thằng Lai chẳng quan tâm cứ bú ”Ông Thọ” và ngủ li bì. Tội nghiệp thằng nhỏ vấn vành khăn tang trên đầu khiến ai cũng lắc đầu thương xót. Có người trách móc ông Trời, có người chửi cha thằng Lai ”Quân vô lương tâm!” nhưng cũng có người chắc lưỡi ”Đây rồi thằng nhỏ sống ra sao?…”

Sau ma chay cho cô Được, bà Sáu đem thằng Lai về nuôi. Bà có chồng nhưng không con nên bà cũng thương thằng nhỏ, còn ông thì hơi khó chịu mặc dù không ghét ra mặt vì mái tóc xoắn và màu da của tụi Tây đen Lê Dương Pháp hay đi càn bố dân quê miền Nam khi xưa. Ông phàn nàn ”Chuyện người ta tư nhiên nhảy vô gánh, thiệt là bà rảnh quá!!“

Cuối cùng bà Sáu chịu hết nổi phải ra chùa đốt nhang tâm sự với cô Được:
– Con có sống khôn thác thiêng về phù hộ cho thằng nhỏ, bà xin lỗi con chắc bà sẽ giao cháu cho viện mồ côi …

Rồi bà đợi ngày rằm tháng tốt ẵm thằng bé cùng với tờ khai sanh nhờ chú Tư Xích Lô Máy rành đường chở bà đến Cô Nhi Viện của mấy bà Phước. Bà quỳ xuống chắp tay lạy mấy lạy, bà năn nỉ:
– Dạ thưa Ma Sơ, mẹ của cháu chết rồi mà tui nuôi không nổi. Nay xin nhờ Ma Sơ nhận dùm cháu, tui sẽ ăn chay cầu trời khấn Phật Amen Chúa phù hộ độ trì cho mấy Ma Sơ (bà còn tính thêm buôn may bán đắt nhưng ngưng kịp!!)

Bà Sơ cỡ trên dưới năm mươi tuổi hiền từ mỉm cười đưa tay ẵm thằng Lai:
– Dạ không sao đâu bác. Cô Nhi Viện sẽ lo hết cho cháu.

Sẵn trớn bà Sáu đưa luôn tờ khai sanh:
– Dạ còn đây là giấy tờ khai sanh xin gởi luôn cho Ma Sơ.

Chiều hôm đó bà Sáu bỏ cơm, cả xóm yên lặng không ai thấy ông Sáu đâu hết. Ổng biến mất vì sợ hàng xóm láng giềng nói bóng nói gió: Người thiếu lòng nhân đạo!!!

Rồi thằng Lai bắt đầu cuộc sống trong Cô Nhi Viện do mấy bà sơ phụ trách. Trời sinh trời dưỡng thấm thoát mà nó lớn lên lúc nào không . Thỉnh thoảng bà Sáu, vài cô bác ở xóm có ghé thăm mua cho vài hộp sữa. Cuối cùng không thấy ai ghé thăm nghe nói đâu chừng bà Sáu dọn nhà đi mất.

Lai sinh vào tháng Ba 1968. Đến 1975 mấy ông bộ đội tiến vào giải phóng miền Nam giải phóng luôn Cô Nhi Viện nằm trong vùng Thủ Đức. Nó càng lớn càng giống người cha Mỹ Đen bỏ chạy hơn là bà mẹ Việt Nam. Nó không biết ai là gia đình dòng tộc của mình ngoại trừ những bà Ma Sơ mà ngày nào cũng chăm sóc cho gần bốn mươi đứa con nít không cha không mẹ, trai có gái có Việt Nam rặt cũng có mà lai Đại Hàn hay Mỹ Đen cũng có. Trai gái được chia ra ở riêng.

Phụ trách đám mồ côi bên con trai là hai Ma Sơ: Ma Sơ An Na và Ma Sơ Tê Rê Sa, còn bên phía nữ là Ma Sơ Lu I Sa và Ma Sơ Cờ La Ra. Tất cả dưới quyền của Mẹ Ma Sơ Ma Ri A một người đàn bà hơi lớn tuổi và nghiêm khắc. Lai cũng như các bạn khác theo sự hướng dẫn gọi bà là Mẹ.

Ma Sơ Tê Rê Sa là một nữ tu nhỏ nhắn chừng trên dưới hai mươi lăm, đặc trách chăm sóc mấy đứa con trai, lớn nhất là anh Chí Ròm mười lăm tuổi. Ma Sơ hay cười và gọi đám con nít là các em. Cô dạy mấy đứa tập đọc làm toán và thỉnh thoảng thưởng đứa nào giỏi cây bút chì hoặc cục gôm mới tinh. Mặc dù đám trẻ hay nghịch nhưng chưa bao giờ cô phạt, quá lắm thì Ma Sơ ôm mặt khóc, những lần như vậy cả lớp im phăng phắc con ruồi bay ngang cũng nghe tiếng. Được cái khóc đó nhưng vài phút sau cô lại cười đùa chơi giỡn với đám trẻ bình thường trở lại.

Ma Sơ Tê Rê Sa đặc biệt thương thằng Lai. Thỉnh thoảng cô bẹo má nó, móc trong túi áo chùng thâm cây viết chì màu dúi vào tay thằng nhóc năm tuổi đầu khen ngợi tài vẽ đẹp. Cô hay xoa đầu nó lẩm bẩm ”Tội nghiệp con”. Nó cũng thương cô như một người mẹ vì nó chưa bao giờ biết mẹ mình là ai huống chi tình cảm mẹ con. Mới năm tuổi nhưng nó dơ nắm đấm đe dọa mấy đứa hay lì lợm không nghe lời Ma Sơ. Đứa nào cũng sợ vì nó to con và rõ ràng là rất mạnh. Thỉnh thoảng Cô Nhi Viện mở cửa cho người ngoài vào thăm. Bọn con nít ăn mặc sạch sẽ, đầu tóc chải gỡ đàng hoàng hy vọng sẽ có người nào đó chịu nhận về làm con nuôi. Vài đứa gặp may mắn rồi, nhất là phía con gái. Nhưng khách cứ tới chỗ thằng Lai thì bước nhanh sang phía khác. Nó nhìn những ông bà buột miệng gọi ”Ba, má” ao ước họ sẽ cười, ẵm lên, hôn và vuốt tóc nó. Rồi thấy người ta bỏ đi luôn nó tủi thân ôm mặt khóc. Ma Sơ Tê Rê Sa từ đâu bỗng xuất hiện chạy tới ôm nó vuốt mái tóc xoăn tít vổ về ”Tội nghiệp con tôi, tội nghiệp con tôi…” Nó oà lên trong vòng tay của Ma Sơ ao ước Ma Sơ là mẹ mình để mình ôm hôn. Thỉnh thoảng nó vẽ gương mặt Ma Sơ dưới vòng lúp đội đầu giống hình mấy bà Thánh treo dọc hành lang. Nét vẽ con nít giản dị nhưng đủ sức làm Ma Sơ rươm rướm nước mắt.

Thực ra thì cuộc sống trong Cô Nhi Viện không có gì phải phàn nàn. Bọn nhóc được ăn uống đầy đủ có cả sữa tươi do lính Mỹ đóng gần đó cung cấp. Ăn sáng xong chúng xếp hàng lên lớp học giống như sinh hoạt trong trường Thiếu Sinh Quân ở Vũng Tàu và mọi chuyện được điều hành tốt đẹp từ khi thành lập tới bây giờ là nhờ vào khả năng của người khai mở: ông cha Giu Se .

Cha Giu Se mới trên dưới bốn mươi lăm chịu chức Linh Mục hơn mười năm. Đặc điểm của ông là chưa kịp nhìn thấy người đã nghe tiếng cười oang oang sảng khoái. Cha Giu Se con một gia đình giàu có phú hộ dưới miền Tây, trốn cha mẹ đi tu theo Công Giáo cuối cùng thành linh mục khiến ông bà Huỳnh Văn Báu khóc hết nước mắt. Ai đời có mỗi đứa con trai nối dõi cho ăn học theo Tây U để kịp tiến bộ với đời, cuối cùng nó bỏ hết cha mẹ tài sản đi tu đạo Chúa. Nó bỏ thánh hiền các đức Khổng, đức Mạnh, đức Quan Công bên Tàu, bỏ luôn cả tổ tiên ông bà. Rồi sau này ông bà về miền tiên cảnh ai sẽ lo cúng quảy nhang đèn? Nghĩ tới đó là bà khóc rống lên, đổ thừa ông cho con theo Tây học. Ông thì thúi ruột nghĩ tới dòng họ Huỳnh từ nay tuyệt tự. Đạo ông bà sao nó không chịu giữ? đất đai tài sản cò bay thẳng cánh sau này khi ông bà về tiên cảnh sẽ để lại cho ai. Lẻ ra tất cả sẽ thuộc về con trai Huỳnh Ngọc An và vợ con nó. Bây giờ càng nghĩ càng nhức đầu…

Huỳnh Ngọc An rất hiểu tâm sự cha mẹ như hầu hết người dân miền Nam về chuyện thừa kế, chuyện nối dõi tông đường. Hồi mới lên Sài Gòn học anh cũng muốn mình theo con đường phụ mẫu mong mỏi: học thành tài lấy vợ sinh con, trở về quê chăm sóc tài sản, y như ngày xưa cha đã làm theo ý ông nội…

Cho tới cái ngày định mệnh dẫn dắt anh đi ngang qua ngôi nhà thờ cổ, nằm cô đơn trên góc đường ít người qua lại. Anh đã đi ngang qua đây vài lần nhưng hôm nay một điều gì đó lôi kéo anh bước vào bên trong. Vòm nhà thờ cao vút trên tường treo hình ảnh vẽ lại một người đàn ông vác cây thập tự. Cũng chính người đàn ông đó giờ bị treo tay chân lên một cây thập tự khổng lồ giữa nhà thờ. Theo những điều học hỏi trong sách vở anh biết người ấy tên là Giê Su giáo chủ của đạo Thiên Chúa nhưng anh chỉ biết đến đó.

Anh ngồi xuống và khi ngước lên mắt anh chạm vào tượng một người phụ nữ ăn mặc đơn sơ trong trang phục màu xanh trắng, hai bàn tay xoè ra, cánh tay giang rộng như muốn mời gọi tất cả đến với mình. Sự giản dị trong cung cách, nét hiền dịu trong vẻ mặt giống như ảnh Phật Bà Quan Âm cầm bình nước cam lồ mà nhà anh hay treo trên đầu sập gụ. Nụ cười hiền hoà trên khuôn mặt bà làm anh bất giác mỉm cười và gật đầu chào…

Vài ngày sau anh trở lại ngồi đúng vào chỗ anh đã ngồi vài hôm trước, gật đầu chào người phụ nữ – mà anh gọi là Bà Đẹp – và bắt đầu mở sách ra học. Anh không quan tâm đó là tượng ai cho đến khi mắt anh đọc dòng chữ Latin ghi dưới chân tượng ” Regina Pacis” (Nữ Vương Hoà Bình) và chú ý đôi bàn chân bà đứng trên quả địa cầu đang đạp đầu một con rắn.

Từ đó anh hay ghé ngôi nhà thờ tìm sự yên lặng suy nghĩ về cuộc đời và đôi khi chợp mắt một chút. Có lúc trong mơ anh gặp ông Giê Su có lúc anh thấy cả Bà Đẹp . Một lần anh nhớ Bà mỉm cười mở rộng đôi tay khẽ nói với mình “Hãy theo Ta“

Ngày anh nhận điện tín báo tin má bệnh nặng. Anh hết hồn tức tốc mua vé xe đò về quê sợ không kịp nhìn mặt.

Xe chạy ngang qua ngôi nhà thờ, đột nhiên anh bảo tài xế ngừng lại và bước vội vào rồi quỳ dưới chân Bà Đẹp mà năn nỉ: ”Bà ơi xin bà cứu chữa cho má con rồi Bà muốn gì ở con cũng được!!!”

Về tới nhà anh chạy ào vào thấy má nằm thoi thóp anh quỳ dưới chân giường nắm tay má mà khóc. Giá như anh đánh đổi sinh mạng mình để má khoẻ mạnh bình thường thì anh cũng không hối tiếc. Nhìn thấy ngực má thoi thóp, hơi thở khó nhọc anh sợ quá ngất đi. Ba đỡ anh ngồi lên ghế thúc đầy tớ làm ly trà chanh đường nóng mớm anh mới hồi tỉnh lại. Anh cứ ở bên má như vậy lúc ngủ lúc thức cho tới sáng hôm sau.

Má mở mắt mỉm cười nhìn đứa con trai yêu của má. Hơi thở coi bộ nhẹ nhàng hơn, sắc mặt hồng hào một chút, má hỏi:
– Dìa hồi nào dậy con

Huỳnh Ngọc An ôm má khóc:
– Má khoẻ chưa má …
– Má thấy đỡ nhiều lắm rồi . Hôm qua má tưởng mình đi luôn không kịp nhìn thấy con. Có cái bà nào đó đẹp lắm nhưng không quen biết gì đến lấy tay đặt lên trán má trong lúc ngủ làm má khỏe luôn…

Bà má không quen nhưng ông con Huỳnh Ngọc An thì biết má mình đang nói về ai vì mấy ngày nay anh cứ năn nỉ Bà Đẹp liên tục.

Trở lên Sài Gòn An bận bịu việc học hành nên không còn thì giờ ghé thăm ngôi nhà thờ cổ kính và Bà Đẹp gần cả năm trời. Thời gian nầy chiến tranh bắt đầu lan rộng, tình hình không an ninh nữa. Huỳnh Ngọc An nhân nghỉ hè về quê thăm gia đình cùng tá điền ra ruộng. Lớ ngớ thế nào bị dính lựu đạn gài nổ tung làm người tá điền banh ruột chết tại chỗ còn Huỳnh Ngọc An bị miểng xuyên qua lồng ngực phải đưa ra bệnh viện tỉnh cấp cứu. Trong những ngày nửa mê nửa tỉnh này chàng thanh niên chợt nhớ lại lời mình hứa.

Bình phục, An trở lại ngôi giáo đường thăm Bà Đẹp và bắt đầu tìm hiểu về Đạo Thiên Chúa. Càng đọc càng mê và cuối cùng sau thời gian gần cả năm trời suy nghĩ An quyết định chọn theo con đường của ông Giê Su – mà anh giờ đây gọi là Chúa – anh càng ngày càng siêng năng gặp gỡ, tâm sự với Bà Đẹp – Anh gọi Bà là Mẹ như mọi người Công Giáo vẫn làm…

Cha Giu Se khi chịu chức còn trẻ lắm. May cha kịp rửa tội, đưa hai ông bà Joachim và Anna lên Thiên Đàng trong một thánh lễ trước khi chết (cha thi hành bổn phận của con cái với hai ông bà cố – cũng không hiểu tại sao người ta cung kính xưng hô song thân mình như thế). Những ngày tháng đầu tiên cha cảm thấy ít thoải mái khi nhiều người già cúi chào thật sâu, xưng CON và kêu mình bằng CHA. Cha hốt hoảng nhưng riết rồi cũng quen.

Tài sản của ông bà Joachim và Anna đúng ra thuộc hết về cha nhưng cha giao cho người em gái mình cai quản. Tiền bạc đối với cha giống như một gánh nặng hơn là niềm vui – không hẳn vì lời Chúa dạy trong Phúc Âm hay tuân theo điều răn khó nghèo của Linh Mục mà đơn giản là cha không biết xử dụng tiền bạc vào cái gì. Từ nhỏ cho tới khi ra đời cha sống trong sự lo liệu của song thân chưa bao giờ bị túng thiếu nên tiền bạc đối với cha giá trị không hơn một tờ giấy lộn là mấy. Cha Giu Se thương con nít. Cha gọi con nít là những Thiên Thần (không tin thì hãy nhìn vào những đôi mắt của chúng). Nhất là những trẻ mồ côi. Chuyện như vầy:

Hôm đó mới sáng sớm ông từ giữ nhà thờ chạy tới đập cửa phòng cha rầm rầm:
– Cha Giu Se ơi, thưa cha Giu Se… Lạy Chúa tôi…

Đang quỳ gối cầu nguyện cho giờ kinh sáng cha hốt hoảng mở cửa hỏi:
– Gì thế bác Năm?

Ông từ Năm đưa cái bọc ông đang ôm trong hai tay :
– Thưa cha có ai bỏ cái bọc này trước cửa nhà thờ…

Cha Giu Se vén rộng hai bên bọc: một gương mặt sơ sinh mới chừng vài tuần đẻ nhìn lên. Điều này thật bất ngờ khiến cả hai người đàn ông điếng hồn. Cha Giu Se đưa tay đỡ, ôm bọc vào trong lòng không nghĩ ra được phải làm gì với hài nhi oan trái của ai đó. ….

Ông từ Năm sống côi cút cả chục năm vì vợ chết được cha Giu Se thương tình cho ở trong góc chái bên nhà kho để lo cơm nước. Ông cũng chẳng bao nhiêu kinh nghiệm nuôi con nít vì hai vợ chồng hồi đó chưa kịp có con. Bây giờ nhiệm vụ của ông là lo thêm một miệng bú ngoài ông và cha Giu Se.

Cuối cùng cha phải gởi đứa nhỏ vào Cô Nhi Viện, nhưng ngay sau đó cha chợt nẩy ý nghĩ là sẽ lập một Cô Nhi Viện tự mình chăm sóc…

Có một khoảng đất hoang rộng sát bên nhà thờ thuộc sở hữu quận. Cha Giu Se làm đơn xin mua lại giá rẻ, gặp ông quận trưởng cũng là con chiên ngoan đạo nên mọi chuyện giấy tờ dễ dàng. Ông quận sốt sắng giao bằng khoán còn làm dấu thánh giá xin cha ban phép lành cho. Thời buổi chiến tranh cẩn tắc vô áy náy – ông quận nghĩ vậy.

Cha Giu Se huy động thanh niên trong xóm phụ với cha làm sạch mặt bằng rồi dựng căn nhà lớn chia nhiều phòng. Lúc đó con chiên mấy ông trùm, ông từ, các bà mẹ Công Giáo và những thanh niên thiếu nữ hội Con Đức Mẹ mới biết cha Giu Se mở Nhà Mồ Côi cho con nít – đặc biệt những em nạn nhân chiến cuộc.

Hôm khánh thành ông quận dẫn bà vợ dân Sài Gòn đến tham gia. Bà này trẻ đẹp mà bình dân cùng lần một tràng Mân Côi với giáo dân địa phương. Bà còn móc ví lấy mười ngàn bỏ thau; ông quận tính bỏ hai ngàn, thấy bà vợ liếc sắc lẻm bèn rút trong bóp gom cho đủ năm ngàn. Buổi tiệc chiêu đãi quan khách gồm có bánh mì thịt nguội và Coca Cola do cố vấn Mỹ cung cấp. Nghèo mà vui!! (tiền mua đất là do cha năn nỉ với em gái chứ cha Giu Se chỉ có cây Thánh Giá và tràng hạt Mân Côi làm của)

Mới đầu mấy bà mẹ Công Giáo và các thiếu nữ hội dòng Con Đức Mẹ xung phong phụ cha còn cha đi lang thang xin chỗ này một ít xin chỗ kia một chút làm vốn phát triển. Từ từ công trình trở nên khang trang rộng rãi chứa được gần chục đứa từ sơ sinh cho tới vài tuổi. Nhiều lúc cha phải về quê năn nỉ em gái hỗ trợ. Cô Mát Tha em gái – chịu rửa tội sau khi cha mẹ qua đời – gặp cha Giu Se là cười:
– Dữ hôn, lâu mới thấy anh. Khoẻ hôn? ở chơi bao lâu? chiều nay em bắt con gà nấu cháo đãi, còn dư thì đem chia cho ông (từ) Năm dùng với!!

Rồi chiều đến cô nói nhỏ với anh mình:
– Nè, anh cầm chút quà về lo công chuyện!! anh không phải cám ơn em đâu!! của cải ba má để lại làm việc tông đồ đó.

Và lần nào sau khi vun quén cho Nhà Mồ Côi cha Giu Se vẫn còn dư chút đỉnh để giúp cho mấy gia đình nghèo.

Nhưng rồi các bà mẹ Công Giáo và thiếu nữ hội Con Đức Mẹ không phải chuyên nghiệp chăm cho cả chục đứa con nít nên từ từ bỏ cuộc. Cuối cùng cha Giu Se xin với Giám Mục cử vài Ma Sơ có huấn luyện bài bản đến phụ. Mới đầu được hai Ma Sơ, sau thấy không xuể vì con nít chạy giặc chết cả cha mẹ xảy ra thường xuyên phải điều động thêm một Bề Trên và hai Ma Sơ nữa mới xoay việc suôn sẻ.

Có những đứa được nữ quân nhân Trợ Tá Xã Hội đem đến, nhưng đa số do chính cha Giu Se đem về từ các trại tị nạn. Hàng ngày sau bổn phận chủ chiên cha thường đạp xe loanh quanh, thấy đứa nào lôi thôi lếch thếch là dừng lại. Cha hay hỏi tình cảnh và cuối cùng đề nghị:
– Con có muốn về ở với gia đình cha không?

Và nếu đứa nhỏ gật đầu nó sẽ ngồi sau yên xe cho cha chở về Nhà Mồ Côi. Còn nếu nó từ chối cha sẽ hướng dẫn thủ tục để nhập trại tị nạn. Và trường hợp của Trương Hoàng Trí đã xảy ra chính xác như thế.

Hôm đó cha Giu Se đang trên đường trở về nhà xứ sau khi thăm trại tị nạn thì thấy một đứa bé cỡ khoảng chín mười tuổi ngồi bên vệ đường. Thằng bé mặt mày lem luốc áo quần xốc xếch cổ đeo một giỏ cói lớn, nhìn chăm chăm trước mặt mà hình như chẳng thấy gì. Cha ngừng lại hỏi:
– Con làm gì mà ngồi đây?

Không trả lời
– Con chờ ba má hả, có đói bụng không?
– Ba má chết rồi!!
– Ôi lạy Chúa!! rồi con sống với ai?

Không trả lời
– Lên xe cha chở con đi mua ổ bánh mì… tội nghiệp con tôi… đói lắm không con?
– Đói…
– Cha biết…

Rồi hai cha con chở nhau đi. Trên đường cha hỏi đứa bé hoàn cảnh gia đình và đây là những gì cha biết …

– Đứa nhỏ tên tên Trương Hoàng Trí, con ông Trương Hoàng Dũng và bà Nguyễn Thị Mai quê ở ngoài Trung. Trên đường chạy giặc vào Nam cha mẹ và đứa em gái nhỏ Trương Hoàng Mỹ Trân bị pháo kích chết nằm tênh hênh ngoài lộ. Còn Trí không kịp khóc cha mẹ em, được mấy người tốt bụng lôi theo vào tận Sài Gòn. Mấy ngày hôm nay bị lạc nhau Trí không biết phải đi đâu cứ lang thang cổ đeo giỏ cói chứa ít quần áo và tờ khai sanh. Đói thì lục rác hay ăn chực đồ dư, khát thì uống nước phông tên. Tối nằm trước hiên nhà người ta mà ngủ. Nhiều khi khách đang ăn mà cứ nhìn chăm bẳm họ ghét đuổi như đuổi tà hay ngủ quên trước hàng quán bị chủ tạt nước buổi sáng….

Cha Giu Se chứng kiến bao trường hợp nhưng chuyện của Trương Hoàng Trí làm cha không ngăn được nước mắt. Cha cứ kêu ”Lạy Chúa con…” hoặc ”Mẹ ơi” sau mỗi ”phân đoạn” ….thói quen trước một sự việc đau lòng. Cha dùng chữ ”Mẹ ơi” để ám chỉ Bà Maria Hằng cứu Giúp vì cha gọi thân mẫu mình bằng má như mọi người miền Nam.

Rồi cha lại hỏi Trí câu quen thuộc:
– Con có muốn về sống với gia đình cha không?

Trí không chút sợ hãi hay nghi ngờ gật đầu. Sau này Trí tâm sự với Ma Sơ phụ trách là Trí tin tưởng gương mặt hiền hoà, giọng nói đầy thương yêu thông cảm của cha Giu Se. Ở quê Trí cũng gặp mấy ông mặc áo dòng như vậy và người nào cũng tốt cho nên dù cha mẹ vẫn dạy Trí và em gái không nghe lời, không đi theo người lạ, nhưng Trí ưng thuận lời đề nghị của cha Giu Se ngay lập tức mà không đắn đo gì hết.

Kể từ khi về Nhà Mồ Côi, Trí trở thành “đàn anh” chín tuổi của đám con trai chừng chục đứa trải dài từ mới đẻ cho tới bốn tuổi đầu. Cha Giu Se giờ không còn đạp xe nữa nhưng cỡi một cái Honda cà tàng mua lại của một giáo dân. Nhờ đó cha đi xa hơn có khi cả chục cây số tìm kiếm những nhà bảo trợ hảo tâm. Nhiều hãng xưởng bánh kẹo, giày dép quần áo rất vui lòng trích ra một số để cha đem về làm quà cho con cái. Những lần như thế cha vui lắm mới đẩy xe vào cửa đã nghe tiếng cha cười oang oang:
– Trí ơi thưa với mấy dì ra phụ cha đem bánh kẹo cho mấy em nè…

Cha cười quạt phành phạch mồ hôi nhễ nhại trên mặt. Cha vui thấy rõ và nói với Ma Sơ phụ trách:
– Tội nghiệp mấy đứa nhỏ thèm ngọt…

Cố vấn Mỹ thỉnh thoảng cho xe nhà binh chở sữa và bánh mì tới phân phối cho con nít. Ông thiếu tá da trắng bự con đứng cao hơn cha Giu Se cái đầu mà mỗi lần nói chuyện với cha đều cung kính hai tay chấp vào nhau. Cha Giu Se hành động tương tự và xổ tiếng Anh như gió trả lời. Cảnh hai người lớn một Việt một Mỹ nói chuyện với nhau giữa một đám con nít chơi chung quanh mới thấy tình yêu không có biên giới.

Chương 2

Có hai chỗ ai muốn tìm kiếm cha Giu Se: hoặc lang thang ngoài đường, trong những con hẻm hay trên chiếc ghế nhỏ cha quỳ cầu nguyện trước cái khung được thắp sáng bằng ngọn đèn đỏ mà Ma Sơ Tê Rê Sa gọi cung kính là Nhà Tạm (trong đó Chúa ngự, tụi con nít từng thắc mắc với nhau làm sao Chúa bự như vậy mà ở vừa cái chỗ có chút xíu). Tay luôn cầm tràng hạt cha Giu Se dường như lúc đó không nghe không thấy gì hết, thần trí cha phiêu bạt nơi nào. Người cần gặp cố gắng chờ nhưng nếu khẩn cấp họ có thể tằng hắng để đưa cha trở về thực tại. Cha không tỏ ra bực mình hay khiển trách, nụ cười hiền lành chào đón lúc nào cũng trên môi.

Hôm ông từ Năm dắt một người đàn bà nhà quê khúm núm xin gặp, Cha Giu Se nhanh bước tiến đến, người đàn bà rên rỉ:
– Thưa cha giúp con với!!!
– Có chuyện gì thế?
– Xin cha giúp ít tiền mua sữa cho hai cháu. Mẹ nó bỏ nhà đi theo tình nhân để lại hai đứa nhỏ cho con là bà ngoại nuôi dưỡng. Con cũng ráng mấy tháng rồi giờ không kham nổi nữa….
– Lạy Chúa tôi, hai đứa nhỏ đâu?
– Dạ con để đứa lớn coi em nó ở ngoài đầu nhà thờ chờ con vào gặp cha.
– Ôi Mẹ Maria… chú Năm ơi xuống bếp nhà mình coi còn gì dọn mâm cơm giúp con với… Dì cho con biết bao lâu rồi bà cháu chưa ăn uống?
– Dạ thưa cha con nhịn hai ngày rồi nhưng không sao chỉ lo cho đứa chị bốn tuổi và thằng nhỏ em nó mới sáu tháng khát sữa …
– Dì đi với con đem hai đứa vào đây…

Hai đứa nhỏ xốc xếch hốc hác, ngơ ngác nhìn cha Giu Se sợ hãi. Cha mỉm cười bồng đứa con trai sáu tháng đi trước dẫn đường cho bà ngoại cầm tay con chị bốn tuổi. Bà ngoại nét mặt già sọm với hàm răng cái còn cái mất đặc trưng dân nhà quê, theo lời mời của cha Giu Se ẵm cháu ngoại đặt ngồi vào bàn ăn không quên mớm no sữa cho đứa nhỏ trước…

Nhìn ba bà cháu quây quần bên nhau cha Giu Se thật vui như đang tiếp đãi khách quý. Cha Giu Se chưa từng trực diện với Thiên Thần nhưng hề gì và đâu cần phải tìm kiếm xa xôi, cứ nhìn vào mắt trong veo của trẻ thơ sẽ thấy hình dáng Thiên Thần hiện diện.

Sau bữa cơm cha móc túi ít tiền vừa mới được em gái tiếp tế dúi vào tay bà ngoại và dặn dò:
– Sau này nếu không kham nổi thì dì gởi các cháu vào đây ….

Nguyễn Thanh Lai biết những câu chuyện như vậy qua lời kể của ông Năm. Thỉnh thoảng ông Năm xin phép Ma Sơ Bề Trên dẫn vài đứa đi vòng quanh nhà lượm rác – một cách dạy cho mấy đứa về trách nhiệm – trong lúc nghỉ giải lao ông hay ngồi giữa bọn nhóc kể chuyện trên trời dưới đất cho mấy cái miệng há hốc tròn vo nuốt từng lời ông già Năm kể. Ông không kể về Chúa và Phúc Âm nhưng thay vào là cha Giu Se thần tượng của ông. Nếu không sợ bị Chúa phạt có lẽ ông thú nhận là đôi khi ông yêu cha Giu Se hơn Chúa một chút – hay nói đúng hơn cha Giu Se chính là Chúa Giê Su trong con mắt của ông từ Năm.

Cũng có những chuyện mà Lai tự chứng kiến: như chuyện của con bé Ngọc Yến. Ngọc Yến chính là đứa chị gái của thằng Ngọc Minh đi theo bà ngoại xin tiền cha Giu Se mấy tháng trước. Bà ngoại cuối cùng chịu không nổi đành đem giao lại cho cha Giu Se hai đứa nhỏ rồi về quê đâu tận Cà Mau cạo đầu quy y nương nhờ cửa Phật. Cha Giu Se gom hết tiền dúi vào tay bà ngoại đang ngậm ngùi ôm hai đứa cháu. Cha khuyến khích bà ngoại rảnh rỗi và có dịp thì trở lên thăm cháu và muốn thì cha sẵn sàng giao lại hai đứa nhỏ cho bà ngoại.

Hai chị em Ngọc Yến Ngọc Minh mới đầu bỡ ngỡ rụt rè và Lai hay kè kè theo hai chị em. Cuối cùng Ngọc Yến bắt đầu chịu cười với anh Lai, cả thằng Minh thấy anh Lai tới gần toe miệng khoe vài cái răng nhỏ xíu. Lai thì ai nó cũng chơi nhưng đặc biệt riêng với hai chị em Yến nó thấy thương nhiều hơn mấy đứa khác. Yến dần quen, cười khoe răng sữa cái có cái không. Thường thì các Ma Sơ tách riêng trai theo trai gái theo gái chơi với nhau và nếu có đứa nào muốn gởi kẹo bánh, cây thước, bút chì cho ”phía bên kia” thì Ma Sơ chuyển dùm. Lai hay gởi chị em Yến những hình vẽ của mình. Thỉnh thoảng Lai được Ma Sơ cho phép sang thăm Yến vui cười toe toét. Yến quên hết bà ngoại, má, những tháng ngày bữa đói bữa no ngoài đường hồi đó; cũng chưa bao giờ thắc mắc sao anh Lai đen hơn mấy đứa khác.

Thời đó Việt Nam Cộng Hòa đột nhiên xảy ra dịch sốt xuất huyết cấp tính trong trẻ em, bệnh viện đông nườm nượp khiến bác sĩ y tá làm việc cật lực. Nhiều em được cứu sống nhưng không phải tất cả …

Cha Giu Se và các Ma Sơ đốc thúc tụi nhỏ giữ gìn vệ sinh, cha cũng nhờ người bạn cố vấn Mỹ xin thuốc phun diệt lăng quăng muỗi mòng. Tưởng đâu yên, ai ngờ.

Ba đứa bị nhiễm trong đó có Yến. Đêm phát giác ra, cha Giu Se ở nhà (mấy hôm nay cha ở nhà ban đêm phòng hờ) cha tức tốc chạy xe Honda tìm tới một giáo dân mượn nhờ chiếc xe Lambretta hữu sản hoá rồi cùng người tài xế và hai Ma Sơ chuyển ba đứa nhỏ phóng chạy lên bệnh viện. Cha ở hẳn trong đó tới sáng mới về, rồi tập trung hết đám nhỏ lại cha nói khàn khàn mệt mỏi:
– Tụi con ơi phụ cha cầu nguyện cho mấy đứa…

Rồi cha dâng Thánh Lễ cùng bốn Ma Sơ và đám con nít. Tới lúc đọc lời nguyện cha nghẹn lời run run như đang khóc. Chúa nhậm lời cha nhưng chỉ hai phần ba, một phần ba còn lại là bé Yến (Nguyễn Thị Ngọc Yến, chị ruột Nguyễn Ngọc Minh) không qua nổi.

Hôm đưa xác Yến về, quan tài nó được đặt trong nhà nguyện, và cha Giu Se ngồi trước quan tài cầu nguyện suốt. Các Ma Sơ phân định tụi nhỏ đi viếng, sau đó đưa hết về Nhà Mồ Côi. Lai trằn trọc không yên xin phép đi vệ sinh rồi lén qua nhà nguyện. Lần nào cũng thấy cha Giu Se và một Ma Sơ túc trực, các Ma Sơ thay phiên nhau nhưng cha Giu Se thì không!! Cha ngồi đó tay cầm tràng hạt và hình như cha không ngủ. Lai lén quỳ gối sau lưng cha ba hàng ghế, đến khi cha phát giác liền ngoắc đến gần mỉm cười:
– Lại đây con…

Rồi cha đặt một ghế nhỏ kế bên, hai cha con ngồi bên nhau cho tới khi Lai ngủ gục. Lai không đọc kinh vì cha không bắt buộc đám con nít mồ côi phải chịu rửa tội theo đạo (cha thường nói các Ma Sơ là hãy sống làm gương để tụi nhỏ cảm phục và tự chúng suy nghĩ xem có thật sự muốn theo đạo hay không). Cha ẵm Lai trở về giường ngủ của nó, không biết rằng từ bây giờ trở đi cha đã thành thần tượng của Lai như cha đối với ông từ Năm. Những dấu ấn về người Linh Mục ảnh hưởng cuộc đời thằng con nít mồ côi da đen cho đến sau này khi nó lớn khôn…

Trong Nhà Mồ Côi lại xảy ra chuyện: hôm đó cha Giu Se vừa đi công việc trở về, cha giật mình khi thấy anh Trí đang quỳ gối trong lớp. Anh Trí lớn nhất, năm nay cũng được chừng mười lăm mười sáu tuổi thân thể vạm vỡ. Anh đẹp trai, hiền lành và thương đám em út trong nhà, anh hay nhường nhịn bọn nhóc cùng thân phận mồ côi. Các Ma Sơ nhờ anh rất nhiều trong vấn đề chăm sóc tụi nhỏ.

Anh Trí đang tuổi dậy thì và bên con gái có chị Hồng cũng sấp sỉ tuổi anh. Bởi vì luật nghiêm ngặt trong Nhà Mồ Côi hai anh chị chưa từng hẹn hò hay làm gì quá trớn ngoài những lần nhìn nhau mắc cỡ quay . Cả hai biết người kia có tình cảm với mình nhưng không ai nói lời nào. Anh Trí vẽ giỏi nên anh vẽ chân dung chị Hồng rồi dấu trong một hốc cây. Anh lén chỉ cho chị biết địa điểm và ngày hôm sau thì bức hoạ chân dung biến mất. Anh Trí vui lắm đem gói kẹo nhờ ông từ Năm mua để dành hồi tháng trước ra chia cho mấy đứa nhỏ.

Chị Hồng không đẹp nhưng chị dễ thương và thanh khiết như một vị nữ thánh. Chị muốn sau này sẽ đi tu như mấy Ma Sơ. Rồi chị nhìn thấy anh Trí…. chị đoán có lẽ Chúa muốn chị đi theo con đường khác.

Cả anh Trí và chị Hồng đều không ngờ là Ma Sơ Mẹ Bề Trên phát giác sự việc một cách thật tình cờ: Ma Sơ đang tản bộ đọc kinh thì thấy mẩu giấy trắng lấp ló dưới hốc cây. Bà cúi xuống lượm lên, phát giác bức thư tình anh Trí viết gởi chị Hồng. Bức thư có nội dung như vầy: “Hồng nhớ giữ gìn sức khoẻ … Trí luôn luôn cầu nguyện Chúa Mẹ ban cho Hồng mọi điều. Chúc Hồng ngủ ngon đêm nay. Trí nhớ Hồng lắm, Hồng có như thế với Trí không?”

Ma Sơ Bề Trên bí mật mời anh Trí lên văn phòng và nói:
– Trí à, con là đứa con ngoan trong nhà sao con không ráng làm gương cho mấy em nó theo? Rồi làm sao con tập trung sức lực học hành nên người sau này giúp ích quốc gia dân tộc và mấy đứa em? Rồi con và Hồng làm sao bình an tâm hồn mà sống? Mẹ không trách con gì hết chỉ muốn con ráng học hành nên người…

Anh Trí khóc:
– Thưa Mẹ con xin lỗi Mẹ con biết tội rồi. Con xin đền tội bằng cách quỳ trong lớp cho tới chiều…

Và anh đã quỳ như vậy được nửa tiếng, đó là lúc cha Giu Se trở về nhìn thấy…

Nét mặt cha thoáng vẻ ngạc nhiên nhưng không nói gì. Cha vào văn phòng thăm hỏi Ma Sơ Bề Trên:
– Thưa Bề Trên, cháu Trí mắc tội gì vậy?

Sau khi Ma Sơ Bề Trên trình bày sự việc và nhấn mạnh Trí tự nhận chịu hình phạt của chính mình, cha Giu Se mỉm cười (nụ cười của sự thông cảm và hiểu biết). Cha trở lại phòng học tới bên Trí khiến ”bị can” ngước mắt sợ hãi nhìn lên. Bất thình lình cha Giu Se quỳ xuống bên cạnh khoanh tay y như phạm nhân. Trí ú ớ mặt đỏ rần giật mình đổ sập người trước vị Linh Mục bật khóc:
– Con xin lỗi Cha, con xin lỗi Cha….

Cha Giu Se mỉm cười nâng Trí dậy:
– Con không có lỗi gì với cha cả nhưng con đã làm buồn lòng Ma Sơ Bề Trên. Hãy đi xin lỗi Ngài…

Trí vùng chạy sang văn phòng Bề Trên quỳ gối khóc nức nở:
– Con xin lỗi Ma Sơ. Ma quỷ cám dỗ con, xin tha thứ cho con…

Bề Trên đỡ Trí lên hiền từ bảo:
– Con giỏi lắm, Mẹ sẽ cầu nguyện nhìều cho con. Về lo tắm rửa ôn bài ngày mai đi con…

Từ đó anh Trí khuyên bảo mấy đứa em trai không bao giờ làm điều gì buồn lòng cha Giu Se và các Ma Sơ. Anh Trí đặc biệt nhắc nhở Lai và mỗi lần kể đến đoạn cha Giu Se quỳ gối gánh tội chung với mình anh Trí lại chảy nước mắt. Lai cũng rưng rưng rồi tự hứa với lòng sau này trưởng thành sẽ xin cha Giu Se cho đi tu giống như cha. Riêng anh Trí sau chuyện đó dường như anh trốn tránh mọi người – tránh cả cơ hội gặp chị Hồng. Anh tập trung học đến nổi ông từ Năm phải tấm tắc “Cu Trí (đám con trai ai ông gọi là cu) định thi ra tiến sĩ hay sao vậy?”.  Không ai biết anh Trí suy nghĩ gì trong lòng, nhưng cha Giu Se nhắc nhở mấy Ma Sơ phụ trách để tâm đặc biệt. Cha nói:
– Thưa quý Sơ, tuổi mới lớn của các cháu rất phức tạp nhưng nếu được chăm sóc quan tâm đúng thì rồi mọi chuyện sẽ êm xuôi. Trí nó bị khủng hoảng, tưởng mình phạm tội nặng lắm. Thật đáng thương!! cả Hồng nữa, chẳng qua chỉ là tâm lý tuổi mới lớn. Xin quý Sơ ủi an các cháu…

Cũng không lạ khi cha Giu Se nói những lời này vì trước khi đi tu cha đã tốt nghiệp môn Tâm Lý Học ở Đại Học.

Hai tháng qua Nhà Mồ Côi sinh hoạt bình thường chẳng có gì đặc biệt ngoại trừ đón tiếp thêm vài đứa nhỏ mất cha mẹ vì chiến tranh. Cha Giu Se vẫn ngày ngày đi lang thang trên chiếc xe Honda cà tàng tha về những ”Hạt Giống Của Trời”. Ông Thiếu Tá cố vấn Mỹ thường tặng quà đã về nước, thay vào là một ông Đại Uý Tin Lành Da Đen. Ông này thỉnh thoảng cho lính chở đồ hộp, sữa bột nhưng không dồi dào như ông trước. Nhưng cha Giu Se không quan tâm lắm theo chủ trương mình phải tự lo cho mình cậy người ngoài riết lỡ có chuyện gì xảy ra thì mình trớt quớt. Bây giờ cha xin được miếng đất nhỏ rồi cùng với các Ma Sơ thêm mấy đứa lớn xốc áo vén quần trồng thêm rau quả.

Tuy nhiên vẫn cần đến những nhà hảo tâm, và ai cũng vui vẻ sẵn lòng mỗi lần gặp cha. Thỉnh thoảng cha lại huy động lực lượng (gồm các Ma Sơ và mấy anh chị lớn) cùng với mình đến dọn vệ sinh phòng ốc cho họ dù họ không yêu cầu. Cha tâm sự với các Ma Sơ: Mình làm gương trong đời sống và dạy tụi nhỏ trách nhiệm sau này. Tâm niệm của cha là: Muốn người khác làm gì mình phải thực hiện trước như thư Thánh Phao Lô trong Phúc Âm. Cha hay trích: “Không làm thì đừng ăn”.

Các Ma Sơ cũng già đi theo năm tháng. Hồi xưa Ma Sơ Tê Rê Sa giống mấy cô nữ sinh trung học mới ra trường nay đã nhiều nét chín chắn dù vẫn trẻ măng. Ma Sơ thương Lai như ngày nào và hay che chở, an ủi vuốt mái tóc quăn như lò xo khi khách viếng nào tỏ ra hất hủi. Dạo này Lai đã bắt đầu đọc kinh trước khi ngủ. Nếu ai nghe được sẽ thấy nó cầu nguyện cho cha Giu Se, Ma Sơ Tê rê Sa, anh Trí các anh chị em cùng Nhà Mồ Côi và đặc biệt linh hồn Ngọc Yến.

Cả Nhà Mồ Côi hốt hoảng, cha Giu Se, ông từ Năm, Ma Sơ Bề Trên túa ra chạy tìm anh Trí. Cha và ông Năm đèo nhau vòng hết mọi chỗ không sót ngóc ngách nào. Sáng sớm thấy giường anh Trí trống, gối mền phẳng phiu kèm mẩu giấy viết vội trên cùng, tụi nhỏ tri hô lên, trình báo Ma Sơ Tê Rê Sa phụ trách . Mảnh giấy chỉ vỏn vẹn một dòng: “Kính thưa cha và các Ma Sơ. Con xin lỗi con ra đi khi nào ổn định con sẽ viết thư về…”

Không ai biết anh Trí đi đâu kể cả Lai vốn là bồ tèo. Buổi chiều mọi người trở về trong thất vọng cha Giu Se dâng lễ cầu cho anh được bình an khoẻ mạnh.

Gần cả năm sau đột nhiên Nhà Mồ Côi nhận bức thư đầu tiên anh Trí gởi về đề tên người nhận là cha Giu Se. Hoá ra anh xung phong đăng lính (tướng cao lớn như anh Trí mà tình nguyện thì binh chủng nào cũng muốn nhận). Bức thư được cha Giu Se xin các Ma Sơ đọc ở mỗi lớp. Nguyên văn như sau:

– Kính thưa cha, kính thưa Ma Sơ Mẹ Bề Trên, kính thưa quý Ma Sơ. Và các em

Con là Trương Hoàng Trí, con viết thư này để cha và quý Ma Sơ và các em biết con vẫn khoẻ mạnh. Con cũng xin lỗi đã làm cho mọi người buồn phiền về con. Hiện nay con đang ở Tiểu Đoàn XX Biệt Động Quân đóng tại Biên Hoà sau khi học xong khoá huấn luyện (con xin lỗi cha con đã khai gian tuổi để đủ điều kiên gia nhập quân đội) .

Kính thưa cha,

Với con cha luôn là cha đẻ ra con. Con mồ côi sớm và nếu cha không dang tay ra đón con về bây giờ con không biết mình sẽ ra sao? con nhớ ơn cha và yêu thương kính trọng cha suốt đời con. Con xin lỗi cha trốn đi bất ngờ vì con nghĩ mình cũng lớn rồi phải tự lo tròn tương lai của mình để cha và các Ma Sơ dành sức cho các em còn ở lại. Con luôn luôn cầu nguyện cùng Chúa Mẹ ban mọi ơn lành hồn xác cho cha kính mến của .

Kính thưa Ma Sơ Mẹ Bề Trên và các Ma Sơ (nhất là Ma Sơ Tê Rê sa)

Con xin lỗi đã làm cho Mẹ buồn về chuyện của con. Con luôn coi Mẹ và các Ma Sơ như mẹ đẻ của con luôn luôn yêu thương chăm sóc cho tất cả chúng con. Mặc dù không còn ở dưới mái nhà chung như trước đây nhưng không ngày nào con không dành thì giờ cấu nguyện cho quý Ma Sơ trong sự quan phòng của Chúa Mẹ ….

Các em thân mến,

Đừng bắt chước anh làm phiền lòng cha và các Ma Sơ. Anh nhớ tất cả các em nhất là Lai. Nhỏ phải nghe lời lớn và lớn thì phải chăm sóc dạy dỗ nhỏ. Khi nào có dịp về phép anh sẽ ghé thăm và mua quà cho các em. Anh nhớ từng em hàng ngày và luôn cầu nguyện cho từng em. Nhớ đừng làm gì sai trái giống như anh và luôn luôn vâng nghe lời cha và các Ma Sơ (sau này lớn lên các em sẽ thấy những gì các em học được trong Nhà Mồ Côi dưới sự chỉ dạy của các đấng bậc quý giá đến chừng nào…)

Nghe nói anh Trí có viết vài chữ cho chị Hồng và cha Giu Se đã trao riêng tận tay chị. Không biết anh viết gì mà chị bị ngất các Ma Sơ phải cạo gió…

Cuộc sống lại diễn ra bình thường như mọi khi. Riêng Lai nó cũng bớt nhớ anh Trí và rất siêng học. Lai vẽ giỏi hơn khiến Ma Sơ Tê Rê Sa hài lòng. Nó muốn khi anh Trí trở về thăm sẽ có chuyện mà khoe với anh. Nó nhớ như in những lời căn dặn của anh Trí. Nó chăm sóc chiều chuộng mấy đứa nhỏ nhiều hơn. Càng ngày Lai càng muốn mình lớn lên giống như anh Trí và nhất là cha Giu Se – Thiên Chúa duy nhất hiện diện trong đôi mắt của đứa bé lai đen mồ côi không còn ai thân thiết.

Hai hôm trước Nhà Mồ Côi nhận thư của anh Trí. Ba tháng rồi còn gì?  Cha Giu Se lại xin Ma Sơ đọc trong các buổi học:

– Kính thưa cha, quý Ma Sơ và các em

Đầu thư con luôn cầu xin Chúa Mẹ ban mọi ơn lành cho tất cả.

Con vẫn khoẻ mạnh mặc dù dạo này đơn vị con hành quân thường xuyên. Tình hình chiến sự ngày càng gay gắt cho nên con vẫn chưa có cơ hội xin phép về thăm nhà.

Kính thưa cha những gì con học ở Nhà Mồ Côi con không bao giờ quên. Con luôn luôn ráng lần chuỗi mỗi ngày như con được dạy. Hôm nào mệt quá hoặc hành quân liên miên con vẫn cố gắng đọc một kinh Lạy Cha, ba kinh Kính Mừng, một kinh Sáng Danh hay ít nhất con cũng làm dấu Thánh Giá dâng xác hồn. Trước bữa ăn con làm dấu Thánh Giá dâng lương thực. Mới đầu mấy anh em chung đơn vị cười nhạo. nhưng bây giờ vài anh người đạo Công Giáo cũng thực hành giống con.

Trung Uý Đại Đội Trưởng tình cờ đi ngang qua chỗ gác thấy con đang lần chuỗi, ông ngồi lại nói chuyện với con
– Em trai, đang làm gì đó? canh gác cẩn thận nghe em…

Con trả lời:
– Dạ…

Trung uý ngồi xuống kế bên con hỏi:
– Em trai tên gì, nhà ở đâu?

Con đứng thẳng dậy trình diện Trung Uý, ông gật gù:
– Anh nghe tụi nó nói em trai không uống bia rượu, không chửi thề cờ bạc mà cũng không đi xuống xóm. Anh tưởng em trai bị tửng hay chọn nhằm binh chủng. Bây giờ thấy em trai lần hạt rồi làm dấu trước bữa ăn, anh biết mình xét nét trật lấc. Anh cũng Công Giáo nhưng không được như em. Em học những điều đó ở đâu vậy?

Con hãnh diện nói con học từ cha Giu Se và các Ma Sơ, Trung Úy gật gù chỗi dậy, quay gót đi vừa nói:
– Cầu nguyện cho anh và đơn vị nha em trai…

Từ đó không biết có phải lệnh của Trung Uý mà anh em trong đơn vị chẳng ai chọc ghẹo gì con nữa. Hai tuần sau con được lệnh đi theo bộ chỉ huy đại đội làm cận vệ cho Trung Uý đỡ cực nhọc và ít nguy hiểm hơn…

Kính thưa cha và quý Ma Sơ,

Con rất hãnh diện được mọi người tin tưởng yêu quý khi con thực hành những gì con học được từ cha và quý Ma Sơ. Con nhớ mọi người, mấy đứa em… Con ao ước mấy em luôn luôn làm hài lòng cha và các Ma Sơ; sau này ra đời sẽ khiến cha và các Ma Sơ hãnh diện về các em. Phần con lúc nào cũng tâm niệm con được như ngày hôm nay là nhờ vào công ơn dạy dỗ của quý cha và các Ma Sơ. Con cầu nguyện liên lỉ cho tất cả…”

Anh Trí cũng gởi kèm thư cho chị Hồng; các Ma Sơ tuân theo lệnh của cha Giu Se đưa thẳng chị không qua kiểm duyệt, vì theo cha Giu Se cha tin tưởng tuyệt đối tình yêu thánh thiện của hai anh chị. Cha nhấn mạnh “Cứ để hai đứa động viên, an ủi nhau, phần mình thì cứ cầu nguyện cho tụi nó”.  Mỗi lần nhận được thư anh Trí chị Hồng vui ra mặt, chị cũng thường xuyên viết hồi âm cho anh nhưng duy chỉ cha Giu Se biết được có bao giờ anh Trí tâm sự cùng cha về tương lai sau này của hai anh chị.

Thư anh Trí phần lớn đều đặn theo ngày tháng nhưng cũng có những lúc gián đoạn tùy thời tiết trong năm: mùa khô ít hơn mùa mưa vì anh phải theo đơn vị hành quân liên tục. Anh cũng không còn ai là thân thuộc để liên lạc nên chỉ gởi thư về Nhà Mồ Côi cho cha Giu Se, các Ma Sơ và đám con nít mồ côi tuy không cùng máu mủ huyết thống nhưng mật thiết còn hơn anh em ruột thịt. Nhất là chị Hồng và thằng em trai lai da đen hiền như cục bột.

Không nghe anh Trí than van về đời sống quân ngũ của mình. Thư anh không đề cập tới đánh nhau chết chóc có vẻ như anh không muốn những điều đó ảnh hưởng tới đời sống bình yên ở Nhà Mồ Côi. Chỉ một lần duy nhất khi anh xin cha Giu Se làm lễ cầu hồn cho một đồng đội.

Điện tín từ Bộ Tổng Tham Mưu báo tin anh Trí tử trận. Hôm đó cha Giu Se vừa mới đi công chuyện trở về văn phòng thì xe nhà binh xịt tới đậu trước cửa. Hai quân nhân xuống xe nghiêm người chào kính theo kiểu lính và nhã nhặn hỏi:
– Kính thưa cha xin phép cho chúng con được gặp cha Giu Se
– Tôi đây, có việc gì thế anh em?
– Thưa cha chúng con nhân danh Bộ Tông Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà xin thành thật chia buồn cùng thân quyến Hạ Sĩ Trương Hoàng Trí SQ… trực thuộc quân số TĐ… BĐQ vừa mới tử trận tại… Xin tường trình cha bức điện tín…
– Ôi Chúa Mẹ ơi tôi mới nhận thư cháu vài ngày trước đây mà…

Cha ngồi phệch xuống ghế hai tay ôm lấy mặt, run theo tiếng khóc. Hai quân nhân nhẹ nhàng để tờ điện tín trên bàn rồi quay gót. Còn một mình trong phòng vị Linh Mục gục đầu trên bàn mặc nước mắt và tiếng khóc thi nhau trào ra. Ông ngước nhìn chăm chăm tượng Thương Khó:
– Tại sao Chúa ơi? con không hiểu….sao không phải là con… Trí nó có tội tình gì đâu?

Cả Nhà Mồ Côi các Ma Sơ mấy đứa nhỏ, ông từ Năm tiếng la khóc vang rân. Mọi người xúm lại quây quần chung quanh cha Giu Se. Không ai biết phải làm gì trong hoàn cảnh như thế này …

Thì ra anh Trí ghi địa chỉ khẩn cấp là Nhà Mồ Côi và cha Giu Se là người thân duy nhất. Do đó nếu bất cứ chuyện gì xảy ra, quân đội sẽ liên lạc về đây.

Cha Giu Se già đi, tóc hình như bạc nhiều hơn. Làm Linh Mục cha chứng kiến và lo liệu bao nhiêu chuyện tang ma đau lòng người đi kẻ ở và mối xúc động cũng giảm đi nhiều theo thời gian. Nhưng lần này thực tế giáng thẳng vào cha và Nhà Mồ Côi. Trí đã từng trải  qua những yêu thương dạy dỗ dưới mái nhà này. Cha ôm lấy ngực đau đớn như vừa mất đứa con ruột thịt. Còn Ma Sơ Mẹ Bề Trên nước mắt chảy dài trên má lần hạt trước Thánh Ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Ma Sơ Tê Rê Sa khóc nức nở ôm thằng Lai trong lòng tìm nguồn an ủi. Lai thấy Ma Sơ khóc nhưng không hiểu lắm về những sự việc đang xảy ra, có điều nó biết chuyện anh Trí hứa về thăm và mua quà cho mấy đứa sẽ không bao giờ đến. Cũng từ nay sẽ không được nhìn thấy nụ cười hay cái vuốt mái tóc quăn tít như kẽm gai của Lai như anh vẫn thường làm trước đây.

Chị Hồng như một xác chết. Mặt xanh mướt không chút máu, nước mắt chảy theo hai bờ má không cần che dấu. Chị gục đầu trên vai Ma Sơ Cờ La Ra. Ma Sơ vòng tay ôm lưng chị thỉnh thoảng vỗ nhè nhẹ an ủi. Không ai thực sự tin anh Trí chết dù cha Giu Se đã niêm yết bức điện tín báo tử với đầy đủ tên họ rành rành. Anh Trí dễ thương hiền lành đạo đức như vậy mà…

Hôm đưa Trí về chiếc xe GMC bự chảng xịch trước cửa nhà nguyện – nơi cha Giu Se quyết định sẽ quàn xác – Quan tài phủ cờ vàng ba sọc đỏ phía đầu đóng một Thánh Giá bằng bạc. Sáu quân nhân đồng phục rằn ri của binh chủng Biệt Động Quân di chuyển quan tài từ trên xe vào nhà nguyện đặt lên hai ngựa gỗ. Họ nghiêm trang chào kính đồng đội, nói lời chia buồn với cha Giu Se rồi lần lượt ra về …

Hình Trí chụp thẻ học sinh vài năm trước được mấy Ma Sơ phóng đại đặt nằm trên bàn trước quan tài cho thấy một chú nhóc học trò cỡ  lớp đệ lục. Trí cười rất tươi khiến ai nhìn cũng ứa nước mắt, không thể ngờ rằng trong khối gỗ nằm im lìm kia là thân xác của một thanh niên tràn đầy sức sống.

Cha Giu Se xin phép các Ma Sơ cho tụi nhỏ đứa nào muốn thì được quấn khăn tang trên đầu. Cả nhà toàn màu tang trắng muốt, ông từ Năm cũng quấn một mảnh. Kinh Cầu Hồn được đọc liên tục nhờ vào sự góp sức của các gia đình giáo dân chung quanh. Riêng cha Giu Se sau khi hoàn tất những nhiệm vụ trong ngày cha lại ngồi trước quan tài lần hạt.

Chị Hồng cứ nấc lên từng chập trong giờ cầu nguyện. Tuy chỉ yêu nhau chưa phải vợ chồng nhưng chị như một trong hàng hà sa số những người đàn bà mất người yêu chồng cha anh ngoài kia. Hầu như chị không ăn uống gì từ khi anh trở về. Các Ma Sơ phải ép lắm chị mới nuốt phần ba chén cháo. Lai được cha Giu Se cho phép đặc biệt cứ quanh quẩn bên chị, thỉnh thoảng lại xé giấy đưa cho chị lau nước mắt. Lai tự nhủ trong lòng: nếu anh Trí biết mọi người đau khổ như thế này chắc anh không đời nào muốn chết.

Tám giờ sáng hôm sau cha Giu Se vừa cử hành xong Thánh Lễ thì có khách. Chiếc xe Jeep đậu trước cửa Nhà Nguyện. Bước xuống là một Trung Úy mặc quân phục binh chủng Biệt Động Quân cùng ba người lính theo sau mang vòng hoa phúng điếu. Vị Trung Úy tay bên trái quấn băng cứu thương kín và trên đầu cũng quấn băng trắng bịt kín con mắt bên trái. Chiếc mũ bê rê màu máu khô che phần nào cuộn băng trán, cặp kính râm dấu con mắt bị thương. Cha Giu se bước ra bắt tay. Vị Trung Úy đứng thẳng người chào kính, siết tay cha Giu Se mạnh mẽ:
– Kính thưa cha con là Nguyễn Mạnh Đường đại đội trưởng của Trí . Hôm nay anh em chúng con xin phép cha cho chúng con đến thăm Trí lần cuối …

Ông ra dấu ba người thuộc hạ đặt vòng hoa trước quan tài rồi cùng nhau trong tư thế nghiêm họ chào kính người bạn đồng đội vừa nằm xuống

Cha Giu Se mời họ ngồi, rót nước trà:
– Cám ơn anh em tới thăm Trí, em nó sẽ ấm áp biết bao.

Viên Trung Uý nói:
– Thưa cha đó là nhiệm vụ của chúng con. Ai trong đơn vị cũng thương và ngưỡng mộ em. Em nó tốt lắm và thường hay khoe em được như vậy là nhờ quý cha và quý Ma Sơ. Con thương Trí như em ruột….
– Thật lòng tôi rất biết ơn Trung Úy và anh em chở che bảo bọc cho em. Em thường viết thư kể chúng tôi về đồng đội trong đơn vị…
– Dạ thưa cha, chính Trí đã cứu mạng con và mấy anh em. Chúng con bị địch tràn ngập và khi họ tiến đến hầm chỉ huy đại đội chỉ còn mấy anh em với nhau. Trước đó Trí đang bị thương vẫn cố gắng bắn trả chống cự đẩy lui vài lần xung phong của địch. Cuối cùng địch ném lựu đạn vào hầm, Trí chỉ kịp hét lên ”Trung Úy!!” rồi nhảy đè lên người con. Lựu đạn nổ con ngất đi và khi tỉnh lại biết mình nằm trong quân y viện với những thương tích như cha thấy. Con hỏi thăm mới nghe Trí và hai anh em nữa tử trận. Phần con còn sống nhưng hư mất một mắt….

Vị Trung Úy trở lại đưa tiễn Trí lần chót trong ngày mai táng. Hôm đó chị Hồng và Lai khóc sướt mướt. Thằng bé mồ côi da đen mới vài tuổi đầu chợt nhận ra một cảm giác thù hận kỳ lạ nhen nhúm trong trái tim non nớt của mình. Nó thù những người đã giết anh Trí khiến cha Giu Se, các Ma Sơ và nhất là chị Hồng phải khóc than đau đớn. Lai không thích đi tu nữa nhưng muốn mình mau lớn để đi lính trả thù cho anh Trí.

Chương 3

“Cách mạng” tấn công, chiếm luôn Sài Gòn thủ đô của VNCH. Dân chúng nhốn nháo chạy lui chạy tới. Người miền Nam giờ như kiến bò trên miệng chảo nóng. Hình ảnh thời chiến, lính tráng xuôi ngược trên đường không còn nữa. Họ rủ bỏ bộ quân phục quen thuộc, ở trần quần đùi đi lang thang thất thểu. Dân chúng từ trước tới giờ  được bảo vệ bởi những người lính nay thấy mình như bị lột truồng. Họ sợ hãi lấm lét nhìn những bộ quân phục xanh lá cây, nón cối và đôi dép râu lạ lẫm, khoác trên  những con người cũng lạ lẫm và đáng sợ y như báo chí mô tả. Phần lớn các nhà đóng kín mít im ỉm trừ mấy đứa trẻ hé mắt tò mò nhìn qua khe cửa hở.

Các Ma Sơ tập trung đám con nít lại trong nhà nguyện. Mấy đứa lớn coi sóc những đứa nhỏ còn những chị gái thì vỗ về bọn trẻ đang khóc như ri vì sợ. Mấy Ma Sơ tỏ ra bình thản như đã quá quen với khó khăn nên sắp xếp đâu ra đó những sinh hoạt bình thường trong ngày. Đám con gái theo chỉ dẫn  phụ giúp nấu nướng cho cả dân tỵ nạn mà cha Giu Se mở cửa đón hết. Tổng cộng hơn trăm nhân khẩu tính luôn những đứa mồ côi mới được cha đón về những ngày cuối cùng của tháng Tư.

Cha Giu Se vẫn thản nhiên như chẳng có gì quan trọng xảy ra. Cha đi từ sáng sớm sau khi dâng Thánh Lễ tới trưa mới ghé về, chở thêm vài đứa trẻ hay ít gạo xin được. Cũng là cha Giu Se trước đây: chưa thấy mặt đã nghe văng vẳng tiếng cười và những giây phút này tiếng cười của cha đem lại hạnh phúc tự tin cho tất cả mọi người trong tín thác vào sự quan phòng từ Trời Cao.

Thỉnh thoảng vẫn còn vọng lại vài tiếng súng nổ rất gần. Không ai biết tương lai sẽ ra sao với tình hình này. Ma Sơ Mẹ Bề Trên lo lắng:
– Kính thưa cha mình tính sao?

Cha nhún vai cười lớn:
– Đừng lo Sơ Bề Trên ơi. Việt Nam mình có câu ”Người tính không bằng Trời tính” cứ phó thác hết lên Chúa Mẹ. Phần mình lo làm tròn bổn phận Ơn Trên giao cho mình thôi…
– Nhưng mà đông quá con sợ mình không kham nổi phần lương thực
– Bây giờ mình cứ cưu mang tất cả. Chừng im ắng thì mình khuyến khích ai còn quê hương xứ sở hãy trở về. Kiểu này chúng ta phải hợp sức cầu nguyện gấp đôi gấp ba kêu xin sự cứu giúp của Chúa Mẹ mới được.

Cha Giu Se mỉm cười sau câu pha trò. Lúc Sơ Bề Trên trở ra cha vói theo:
– Xin Sơ mở cửa kho gạo an toàn nấu thêm để mọi người được no. Cũng may mình vừa nhận được mấy chục bao từ Uỷ Ban Cứu Người Tỵ Nạn.

Lai giờ mười tuổi nhưng cao lớn như những đứa mười ba mười bốn giúp đỡ đắc lực cho Ma Sơ Tê Rê Sa. Nó có thể đẩy xe chở gạo từ nhà kho xuống bếp. Không ai buộc Lai phải làm nhưng nó tự ý vì muốn chứng tỏ với mọi người là mình đã lớn biết lo nghĩ. Ma Sơ Tê Rê Sa mỗi lần thấy Lai è ụi đẩy chiếc xe cút kít thì lấy tay ôm ngực la hoảng:
– Lạy Chúa con, cẩn thận nghe con…

Dù mồ hôi mồ kê nhưng Lai thấy hãnh diện vì được khen và làm chuyện có ích. Ông từ Năm dạo này chỉ lo quét dọn nhà thờ, không giúp được bao nhiêu như hồi trước.

Tháng Tám năm 1977, một buổi sáng nghe tiếng chuông ông từ Năm mở cửa thấy người lính bộ đội ra dáng chỉ huy với súng ngắn đeo hông và sắt cốt ngang vai cùng hai người lính mang súng dài theo sau. Vừa gặp mặt ông Năm, người chỉ huy lớn tiếng:
– Chúng tôi là bộ đội giải phóng, yêu cầu được gặp Linh Mục chủ nhà thờ!!

Ông Năm sợ hãi lui về phía sau  đến văn phòng cha Giu se báo cáo quên cả việc mời khách bước vào. Cha Giu Se vừa dâng lễ xong đang ngồi uống tách trà nóng buổi sáng nghe báo cáo vội vã rảo bước ra gặp khách. Người bộ đội chỉ huy có vẻ khó chịu vì bị chờ lâu sẵng giọng:
– Ông là Linh Mục ở đây?
– Vâng tôi là Linh Mục quản xứ
– Chúng tôi được lệnh của Uỷ Ban Nhân Dân thi hành lệnh kiểm tra khuôn viên nhà thờ. Xin ông cho chúng tôi làm việc

Cha Giu Se thắc mắc:
– Thưa bộ đội, chúng tôi có làm gì sai trái hay sao mà bị lục soát? Chúng tôi không chứa chấp đồ quốc cấm hay những gì phạm pháp xin quý ông cho chúng tôi biết chuyện gì xảy ra. Chúng tôi chỉ là nhà mồ côi chăm sóc cho các em bất hạnh không cha mẹ …

Người bộ đội chỉ huy nhăn mặt:
– Rồi sẽ biết…

Cùng với nhau họ quầy quả đi về phía nhà kho và nhà nguyện ngang vài gia đình tỵ nạn nằm lay lất trên sàn gạch. Tới nhà kho họ yêu cầu Ma Sơ quản nhiệm mở cửa và hài lòng khi thấy gần trăm bao gạo, mì gói, sửa hộp cá hộp dầu ăn Quân Tiếp Vụ chồng chất lên nhau (kết quả nhờ tài ngoại giao của cha Giu Se đi khắp nơi xin để dành cho trẻ mồ côi).

Người bộ đội chỉ huy hài lòng chỉ tay hết mọi thứ nói với cha Giu Se:
– Những vật này giờ thuộc quyền quản lý của nhà nước.  Chúng tôi niêm phong nhà kho và ngày mai chúng tôi sẽ đem phương tiện vận chuyển về khu vực quản lý …

Cha Giu se phản đối:
– Đây là tài sản riêng của chúng tôi và thuộc quyền sở hữu của nhà thờ dành cho những trẻ mồ côi bất hạnh. Quý ông không có quyền gì tịch thu. Nếu các ông chở đi rồi lấy gì nuôi các cháu? hơn nữa chính sách cách mạng là không tơ hào cây kim sợi chỉ của nhân dân, các ông đang làm gì vậy?

Người bộ đội chỉ huy khinh khỉnh:
– Đi lên Uỷ Ban Nhân Dân mà hỏi …

Không biết lý do gì họ bỏ đi, để lại nhà kho chưa niêm phong. Một trong hai bộ đội đi theo được chỉ định ở lại canh gác. Mặt non choẹt, anh lính gườm gườm chĩa súng vào bất kể ai đi ngang. Sơ Bề Trên lo lắng:
– Bây giờ mình tính sao đây?

Cha Giu Se ngồi trầm ngâm trước ly trà nguội ngắt. Cuối cùng cha đứng dậy quả quyết:
– Ông Năm ơi…
– Dạ con đây thưa cha
– Bây giờ chúng ta phải làm thế này…

Trưa hôm đó người ta thấy ông từ Năm mời người lính về nhà một giáo dân gần đó nhậu thịt chó. Anh bộ đội lúc đầu cương quyết từ chối nhưng khi nghe ông già Năm phân giải đồ đạc đâu còn đó chẳng ai ăn cắp ăn trộm gì được, theo ông về nhà uống cà phê sữa đá trong lúc mùa hè nóng bức thì anh chàng miễn cưỡng nhận lời. Từ cà phê sữa cho đến cầy tơ rượu nếp than cũng chẳng xa bao nhiêu nên bây giờ chàng bộ đội giải phóng đang chén chú chén anh với người chủ gia đình là ngụy bại trận. …

Trong khi đó cha Giu Se huy động hết gìà trẻ lớn bé bí mật chuyển bớt gạo, đồ ăn hộp, dầu nấu sang cất vào phòng trống bên cạnh nhà thờ. Đoàn người dưới sự điều động của cha Giu Se như đàn kiến tha mồi đi đầu là cha rồi đến các Ma Sơ, những người lớn thanh thiếu nữ đám con nít. Chỉ trong Nhà Mồ Côi thôi vì cha không muốn manh động tới tai “giải phóng”; cũng không thể di chuyển nhiều quá khiến bị phát giác phiền phức tới sự an nguy của mọi người. Thật là kỳ lạ trần đời có một!! Bỗng dưng phải lén lút di chuyển tài sản thực phẩm của chính mình như đang thi hành công tác… ăn trộm.

Và Nguyễn Thanh Lai có thêm lý do để ghét ”quân giải phóng”. Họ chẳng những giết chết anh Trí, bây giờ còn cướp đoạt mồ hôi nước mắt cha Giu Se đổ ra hàng ngày lang thang ngoài đường ăn xin lòng hảo tâm của mọi người đem về nuôi đám mồ côi. Mới mười mấy tuổi đầu Lai bắt đầu thấy và đối diện với những trớ trêu cuộc đời. Chúa đang ở đâu sao không giáng một bạt tay vào mặt bọn ăn cướp đang vỗ ngực tự xưng ”quân giải phóng”?

Sáng hôm sau trời còn sớm khu vực nhà thờ trở nên náo nhiệt vì âm thanh ồn ào của hai chiếc xe vận tải quân đội de đít vào trước nhà kho. Gần một chục lính nhảy xuống ào vào khuân vác hết thực phẩm quăng lên xe. Hai tiếng đồng hồ sau mọi thứ trống trơn không còn một hạt gạo sót. Viên chỉ huy ngày hôm qua – cũng là anh chàng ngày hôm nay – không tránh khỏi nét mặt hài lòng phẩy tay về phía những gương mặt ngơ ngác sợ hãi
– Cách mạng hoan hô tinh thần cống hiến của nhân dân….

Nhân dân không biết phải làm sao đành xoa chiếc bụng lép kẹp bâng khuâng nghĩ đến chiều nay sẽ nhét cái gì vào đó.

Buổi chiều gần một trăm nhân mạng chia nhau lương thực từ các chảo cơm tập thể kèm cá khô, cá hộp, thịt hộp dấu khuất mắt quân giải phóng. Họ chiếm được những gì họ muốn rồi nên cũng chẳng màng quay trở lại.

Cha Giu Se tiếp tục công việc hàng ngày cũng như những nữ tu và bọn con nít. Lúc này cả miền Nam rơi vào tình trạng ngăn sông cấm chợ đói triền miên nhưng Nhà Mồ Côi vẫn được giáo dân chung quanh chia sẻ phần lương thực nhỏ nhoi của họ.

Các quân nhân viên chức chính quyền miền Nam bắt đầu trình diện chịu đi tù tập thể. Buổi sáng trên đường không còn thấy nhiều bóng dáng đàn ông như trước đây thay vào đó là bộ đội và thêm thành phần công an giải phóng với quân phục nón cối màu vàng và đôi dép râu quen thuộc. Công an giải phóng thì sắt máu hơn, sẵn sàng đưa thành phần dân ”NGỤY” đi  cải tạo mút chỉ không ngày về nếu chống đối chính sách của nhà nước. Dân Ngụy sợ hãi công an giải phóng như thần chết, sợ quá nhiều người phải đổi thái độ nịnh bợ để được yên tâm mà sống.

Ma Sơ Tê Rê Sa tới phiên đi họp tổ dân phố về kể câu chuyện có thật ai nghe xong cũng cười sặc:

– Có bà già bán xôi khi cán bộ khuyến khích lên trình bày ý kiến đã phát biểu: ”Cám ơn Cách Mạng vào giải phóng sớm không thôi VIỆT CỘNG pháo kích chết hết dân báo hại tui bán xôi ế ẩm“. Cán bộ xạm mặt đuổi bà già xuống lẹ và giải tán cuộc họp. Còn dân ngồi ở dưới không ai dám cười.

Tháng Chín năm Một Ngàn Chín Trăm Bảy Mươi Chín, đêm Hai mươi Ba khoảng một giờ khuya, xe Jeep ”giải phóng” cướp được của ”NGỤY” xịch đổ trước nhà thờ. Bốn công an súng ống lăm lăm chạy sầm sập bao vây nơi cha Giu se đang ngủ. Họ đập cửa rầm rầm và khi cha Giu Se xuất hiện người chỉ huy đọc lệnh bắt, còng tay cha giải ra xe. Ông từ Năm hốt hoảng tính giật chuông báo động nhưng cha lắc đầu khoác nhẹ tay, có vẻ như cha Giu se đã đoán trước chuyện gì sẽ xảy ra và cha bình tĩnh chờ nó đến.

Ông từ Năm đợi xe jeep đi khuất mới rung chuông ầm ỉ. Giáo dân ùn ùn kéo đến mang theo gậy gộc dao mác, họ trách ông sao không báo động sớm.  Giờ thì ông Năm hiểu tại sao cha Giu Se ngăn ông: chắc chắn nổ ra chuyện lớn giữa hai bên và đám công an đến bắt giữ cha sẽ không một mạng sống sót trở về.

Hai tuần sau vào buổi sáng công an lại đến. Họ tịch thu hết tài liệu vât dụng trong văn phòng và phòng ngủ của cha Giu Se trước sự chứng kiến của Sơ Bề Trên. Khi Sơ Bề Trên hỏi:
– Xin quý ông cho chúng tôi biết Cha quản nhiệm chúng tôi bị bắt giữ về tội gì và hiện đang ở đâu để chúng tôi thăm viếng…

Người chỉ huy nhún vai:
– Ông cha ở nhà thờ này can tội hoạt động chống cách mạng có vũ trang. Hiện ông ấy đang bị giam ở đâu thì tôi không biết nhưng bà đừng lo, cách mạng sẽ cho bà biết sớm thôi. Nếu ông ấy thành khẩn nhìn nhận tội lỗi của mình thì cách mạng sẽ khoan hồng và tha về ngay. Phần bà xin làm ơn ký tên và điểm chỉ ngón tay vào chỗ này trong bảng tường trình kiểm kê hôm nay.

Buổi chiều Sơ Bề Trên tập hợp tất cả và thông báo những tin tức mới nhất về cha Giu Se sau bao nhiêu công sức đổ ra tìm cha không kết quả. Tin cha Giu Se “phản động” bị bắt làm mọi người giật mình vì vị Linh Mục chỉ biết thi hành nhiệm vụ của mình với giáo dân và chăm sóc bọn trẻ mồ côi lại dám làm chuyện lật đổ cái “chính quyền” mà ai cũng muốn nó bị lật đổ. Nhất là ông từ Năm thực sự hãnh diện trong lòng về thần tượng mặc dù nhiều đêm ông nhớ cha Giu Se khóc hết nước mắt. Có điều ông thắc mắc cha dùng vũ khí gì để phản cách mạng vì ngoài cây Thánh Giá và tràng chuỗi Mân Côi ông chưa thấy cha đụng chạm tới khẩu súng hay thậm chí con dao trong nhà bếp….

Cách mạng có trí nhớ tốt nên cũng không quên mấy bà Sơ và bọn con nít. Ở trong đất địch ai vô tội với cách mạng? Chẳng qua họ chưa dư thì giờ truy xét mấy bà Sơ không chịu ăn mặc đơn giản như bộ đội gái mà vẫn mang trên người tấm áo dòng theo kiểu tiểu tư sản “Ngụy”. Nhưng rồi họ cũng tìm ra thời giờ dư.

Một buổi chiều công an phường mời mấy bà Sơ lên văn phòng làm việc. Sơ Tê Rê Sa mặt xanh như tàu lá, các Sơ kia cũng không hơn gì. Duy chỉ Mẹ Bề Trên không tỏ dấu hiệu sợ hãi dao động, liên tục lần chuỗi. Điều này cuối cùng mang lại cảm nhận bình yên cho cả nhóm bốn bà Phước.

Bọn con nít nhốn nháo đứa khóc đứa la và lúc này mới thấy tài Lai. Cùng với vài anh chị lớn Lai dỗ dành mấy đứa nhỏ, lấy mì gói nấu cho từng đứa. Chỉ thời gian khủng hoảng ngắn Lai chợt trở thành chín chắn dù chưa tới tuổi mười sáu dậy thì.

Buổi sáng họ cho các Sơ về nhưng ngày nào cũng phải lên phường trình diện. Lần chót công an giữ lại, ba ngày sau các Sơ có công an đi kèm được trở về Nhà Mồ Côi thu dọn đồ đạc cá nhân. Sau đó họ ôm bọn trẻ mà họ gần gụi nuôi dưỡng gần chục năm nay khóc lóc từ giã. Sơ Tê Rê Sa ôm Lai, cởi tràng chuỗi Mân Côi trên áo đeo vào cổ thằng bé:
– Luôn luôn sống tốt nghe con. Nhớ đến Sơ trong lời cầu nguyện, Sơ sẽ nhớ con luôn, xin Chúa Mẹ quan phòng con trên đường đời. Không biết bao giờ Sơ mới gặp lại các con…

Công an không bỏ tù mấy bà nhưng cưỡng chế trả họ về với Toà Giám Mục. Từ nay họ không còn dính líu hay trách nhiệm gì Nhà Mồ Côi do cha Giu Se Huỳnh Ngọc An thành lập. Trại chính thức đóng cửa giải tán và nay thuộc quyền sở hữu của nhân dân. Công an chia bọn trẻ làm hai nhóm: nhóm những em lớn  từ mười hai trở lên sẽ được đưa đi vùng kinh tế mới lao động phát triển đất nước, phần còn lại gởi vào vài trại mồ côi lèo tèo còn sót của mấy ni cô Phật Giáo.

Công an khoá bên ngoài, có hai người ngồi trước cửa. Bên trong bọn nhóc sợ hãi và đói kêu khóc như ri nhưng giờ thì đâu còn ai dỗ dành an ủi. Nhóm sắp sửa được chở đi ngày mai trong đó có chị Hồng cứ ngồi thẫn thờ  nhìn ra cửa. Chị Hồng tuy đã phôi pha chuyện anh Trí nhưng vẫn tiều tuỵ xanh xao như vừa mới bệnh dậy. Lai thỉnh thoảng đến bên chị nắm bàn tay chị áp vào lòng mình an ủi. Mỗi lần như thế chị lại vuốt mái tóc quăn tít của Lai và chảy nước mắt.

Lai cũng thuộc nhóm con trai sẽ đi kinh tế mới vì cao to như người lớn. Mồ côi không cha không mẹ không anh em họ hàng Lai chẳng thấy lo lắng chút nào dù bị gởi đi đâu nhưng vụ này thì linh tính báo nó biết lành ít dữ nhiều. Nó tìm thằng Minh dẫn em về chỗ mình dặn em nằm im, nó lén bò về phía chị Hồng nói khẽ:
– Chị Hồng, chị có muốn trốn với em không? Chiều nay em tính sau giờ ăn em sẽ chui qua cửa sổ rồi tuột xuống lề đường. Em thấy cái gì đó không ổn ….

Hồng mỉm cười:
– Thôi chị nhát lắm chị không dám đâu nhưng chị sẽ cầu nguyện cho em được bình yên. Lên tới nơi nếu thấy không xong chị sẽ tìm cách trốn dễ hơn. Rồi chị sẽ ráng kiếm các Ma Sơ của mình, Ma Sơ Cờ la Ra có cho chị địa chỉ toà Giám Mục

Lai ngần ngừ:
– Vậy thì chị ở lại mạnh khoẻ, sau này em sẽ cố gắng tìm chị…

Rồi nó bò về chỗ mình. Buổi chiều phát cơm xong công an khoá cửa bên ngoài. Tám giờ tối đèn tắt ngúm, Lai chổi dậy nắm tay thằng Minh bò lên gác nhè nhẹ đẩy cửa sổ. Tiếng kẽo kẹt làm nó hết hồn ngưng tay nghe ngóng. Không thấy gì lạ Lai mạnh tay mở rộng cánh cửa. Nó chui ra trước quay lại ẳm  thằng Minh theo. Rồi hai đứa; thằng nhỏ nằm trên lưng thằng lớn tuột nhè nhẹ xuống khoảng đường trống phía dưới. Tới nơi Lai cõng  Minh chạy thục mạng không quay đầu nhìn lại. Nó  lo xa vậy thôi chứ cách mạng đâu tưởng tượng nổi hai thằng mồ côi chưa tới tuổi lớn, gan cùng mình mở cửa sổ vượt trại êm ru.

Sáng hôm sau công an đếm đầu kiểm tra thấy thiếu hai đứa. Họ không quan tâm cũng chẳng thèm truy cứu vì chạy đi đâu cho thoát giữa rừng thiên la địa võng của chính quyền cách mạng. Người lớn còn chết lên chết xuống huống hồ gì mấy đứa nhỏ. Họ cũng chẳng có thì giờ tìm kiếm vì chút nữa xe tới chở tụi ở lại đi hết .

Lai cõng thằng Minh ngủ gà ngủ gật trên lưng đi như chạy càng xa nhà kho càng tốt. Người lớn thấy chúng không ai ngừng  thăm hỏi. Lai cũng muốn được yên vì không biết phải trả lời thế nào nếu có người tò mò, thời buổi này ai biết ai ra sao…

Lai ghé vào một quán nước. Chủ quán là một bà già miệng nhai trầu bỏm bẻm, bà thấy hai đứa bèn ra dấu hỏi:
– Anh em bây đi đâu mà sớm sủa vậy?

Lai chợt cảm thấy đói bụng và khát nước nên khẩn khoản:
– Dạ tụi con lạc mất gia đình từ chiều hôm qua. Bà làm ơn cho tụi con xin ly nước…

Bà già nhìn sững Lai và nói:
– Uả sao mầy giống lai Mỹ Đen quá vậy mậy. Thằng nhỏ đó là sao với mầy?

Lai tái mặt, nó quên mất vụ này:
– Dạ nó là em con. Tụi con cùng mẹ khác cha…
– Ngồi xuống đó đi …

Bà già quay vào trong Lai bâng quơ đưa mắt nhìn quanh tường. Nó hết hồn khi thấy hình một người lính bộ đội trên bàn thờ, kế bên là hình ông Hồ Chí Minh và vài tấm bằng khen có công với cách mạng.

Bà già bưng nước và nải chuối sứ để trước mặt hai đứa nhỏ:
– Mầy là con lai hả?

Lai giả lả:
– Dạ đâu có, tại con mần ruộng rẫy dang nắng…

Lai ráng nuốt mau trái chuối rồi cám ơn bà già cõng thằng Minh đi một nước. Thiệt hú vía!! nó chẳng sợ gì nhưng tội nghiệp Minh, lỡ Lai có bị gì thì ai sẽ lo cho thằng nhỏ …

Chiếc xe đò chạy bằng than mà hai anh em đang ngồi hướng về phía Sài Gòn. Hành khách chật xe; trên mui và lòng xe hàng hóa chất như nêm trông giống một trái núi đang di chuyển. Minh lọt thỏm trong lòng Lai dưới sàn bên cạnh hàng ghế có một bà lớn tuổi và vài bạn hàng ngồi chen chúc. Thấy hai đứa nhỏ bà chắc lưỡi hỏi:
– Hai đứa đi đâu mà thất thơ thất thểu vậy con? Ba má đâu?

Lai lễ phép:
– Dạ tụi con lạc ba má với mấy chị mấy hôm rồi mà không tìm ra…
– Tội nghiệp hôn rồi ăn uống gì chưa?

Mỗi người nghe chuyện không ai bảo ai móc trong túi áo, giỏ gánh của mình ra. Ngườì dúi bánh ú bánh tét, người nhét tờ giấy bạc “cách mạng” vào tay Lai. Nó nhận ra mấy hôm nay mình nói dối nhiều lần, trong lòng thấy mắc cỡ với cha Giu Se, Ma Sơ Tê Rê Sa và anh Trí. Nó tự nhủ mình đâu muốn nhưng chính “cách mạng” đẩy hai anh em vào đường này.

Lai rất cảm động về tấm chân tình của bà con cô bác sẵn sàng chia sẻ chút thực phẩm tiền bạc với những ai trong hoàn cảnh tang thương như hai anh em nó. Cách mạng vô, dân “Ngụy” đâu còn dư giả chia cơm xẻ áo như hồi trước. Kể cả anh lơ xe đò nếu không thương nhường một chỗ trên chiếc xe chạy bằng than cà ạch cà đụi như bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối, thì tới chừng nào anh em tụi nó mới lên tới Sài Gòn?

Xe đậu chỗ nào khách muốn và địa điểm cuối cùng là bến xe miền Đông nơi khởi hành cũng như đích đến. Hành khách lục tục lấy hành lý và xuống xe. Hai anh em ngơ ngác nhìn chung quanh thiên hạ nườm nượp kẻ đi người đến. Thấy một chị còn trẻ tay dắt đứa con vai vác một bao bì nặng Lai buông tay Minh chạy đến:
– Chị để em phụ cho.

Rồi không nói không rằng Lai cúi xuống lấy thế đặt bao tải lên vai bước thoăn thoắt theo chị. Tới gần chiếc xe thồ chị ra dấu cho Lai bỏ xuống hỏi:
– Tính chị bao nhiêu vậy nhỏ?

Lai ngạc nhiên:
– Em thấy chị bị khó khăn thì em giúp thôi chớ đâu có tiền bạc gì?

Chị phụ nữ mỉm cười:
– Chớ không phải em là phu khuân vác ở bến xe sao? Nhưng mà chị nợ em công khuân vác để chị trả cho em  chút thù lao…

Rồi chị đưa mấy tờ giấy bạc. Lai ngớ người nhưng thầm vui vì là lần đầu tiên nhận được kết quả từ sức lao động của mình. Thực ra thấy chị tay xách nách mang cực nhọc thì ghé vai vào chớ Lai không thực sự chờ đợi tiền công. Chiều hôm đó hai anh em mua hai dĩa cơm rau muống xào tỏi có thêm ly trà đá. Buổi tối hai anh em lăn đại ra nền xi măng ngủ. Tối thằng Minh rên lạnh khiến Lai phải ôm sát em vào lòng lấy hơi nóng thân mình sưởi ấm em.

Bây giờ thì Lai tình cờ tìm ra cách kiếm tiền mua cơm: Sáng nó chạy ra bến coi xe nào mới cập thì xin khuân vác thuê cho bạn hàng. Thấy thằng nhỏ dễ thương lễ phép có sức khoẻ bạn hàng gọi nó ơi ới. Vừa vác hàng cho khách vừa nhóng mắt nhìn thằng Minh đang chơi đùa trong tầm quan sát Lai rất yên tâm. Tối nay Lai sẽ mướn thêm chiếc chiếu đắp cho em đỡ lạnh kẻo nó bị bệnh thì chết.

Trong một bến xe lớn như Xa Cảng Miền Đông tất nhiên Lai không phải là dân khuân vác duy nhất. Có nhiều băng dưới sự chỉ đạo của những đàn anh lừng lẫy giang hồ. Họ độc quyền việc khuân vác cho bạn hàng chở đi hay cất hàng xuống. Họ đã làm như thế từ trước ngày ”giải phóng”. Cảnh sát VNCH cũng không dám can thiệp vào chuyện của họ. Bởi vì họ độc quyền nên họ cũng tự ấn định giá cả cho những bốc vác theo chiều dài đoạn đường. Bạn hàng phải chấp nhận điều kiện họ đưa ra nếu không muốn hàng hoá mình bị chậm trễ hay bị phá phách.

Sau ngày 30/4/1975 phu bốc vác – vốn trước đây là lính nay không công ăn việc làm – gia nhập rất đông. Nhóm này dành khách với nhóm kia ngày nào cũng xảy ra ấu đả dành mối. Họ thường cầm mã tấu rượt chém nhau ngờ ngờ trước mặt mọi người như trong phim kiếm hiệp Hồng Kông. Công an phải dồn lực lượng truy quét tóm mấy tay đầu đảng đi tù tập trung cải tạo không ngày về. Nhờ vậy tình hình tương đối yên tỉnh; nhưng  được thời gian rồi đâu cũng vào đó.

Lúc này dân thầy thợ hồi VNCH ai nấy cũng nhảy ra đi buôn kiếm cơm bỏ vào miệng. Thành ra bạn hàng càng cần phu khuân vác và những băng nhóm chia khu làm ăn theo kiểu nước sông không phạm tới nước giếng.

Hiện tại băng của Tài Chùa ở phía Bắc và băng Hoàng Lé trông coi khu vực phía Nam. Hồi đầu họ cũng từng đụng độ dành chỗ làm ăn đổ máu; nhưng bây giờ họ chấp nhận kẻ có cơm người có cháo trong thời buổi trừ “cách mạng” ra thì ai nấy đều đói… Chính lúc này Lai khai trương nghề bốc vác của mình trong khu vực làm ăn của Hồ Ngọc Tài hay Tài Chùa vì đầu lúc nào cũng cạo trọc.

Tài là Trung Sĩ binh chủng Thuỷ Quân Lục Chiến nhưng giải ngũ trước ngày 30/4/75 vì thương tích hư mắt trái do đạn AK; tay trái anh còn mờ mờ nét xăm TQLC Sát Cộng. “Cách mạng” vô, anh cố tẩy xăm mà không được vết thương bị nhiễm trùng khi lành biến thành sẹo lớn khiến đi đâu anh cũng mặc áo dài tay che khuất. Tài chịu chơi và liều lĩnh nói chém là chém nên bọn đàn em cỡ chừng chục đứa dưới trướng rất nể phục. Tài biết trọng dụng đàn em nên hể ra lệnh về chuyện gì thì đàn em răm rắp thi hành. Tài và em út sống trong một căn nhà nhỏ bỏ hoang gần Xa Cảng.

Hôm nghe đàn em báo cáo có một thằng nhóc lai Mỹ Đen ngang nhiên ra hành nghề bốc vác mà không xin phép ai hết, Tài bực mình ra lệnh bắt nó về xem thằng này bậm trợn cỡ nào mà không biết sợ ai hết. Đàn em tuân lệnh đem cả hai anh em về trình diện nhưng trước đó chúng đã dần thằng Lai một trận hộc cả máu mồm máu mũi.

Tài suýt phì cười vì thằng nhóc tuy to con nhưng mặt mũi non choẹt. Đúng là lai Mỹ Đen với bộ tóc xoăn tít và nước da Châu Phi y hệt như những lính Mỹ Tài từng đi hành quân chung. Tài hất hàm:
– Mầy tên gì? Mấy tuổi?
– Dạ con tên Nguyễn Thanh Lai, năm nay con mười bốn tuổi
– Mầy lên đây làm bốc vác hồi nào? Có xin phép ai không? Còn thằng nhóc này là ai?
– Dạ hai anh em con đói quá nên làm đại chứ không xin ai. Dạ em con tên Lê Ngọc Minh
– Mầy giởn mặt tao hả, mầy họ Nguyễn nó họ Lê làm sao là anh em?
– Dạ tui con là anh em trong nhà mồ côi

Tài chợt cúi xuống đất khi nghe thằng nhỏ khai là dân mồ côi, lại cưu mang thêm một thằng em cũng mồ côi không ruột thịt. Anh gục gặc đầu:
– Tụi nó đánh em có đau không?
– Dạ con hơi bị tức ngực một chút, con chỉ lo cho em con thôi trưa nay không biết kiếm tiền đâu mua cơm cho nó …

Tài nói vói ra sau:
– Năm, mở trói dẫn nó đi rửa mặt rồi ra bà Sáu mua cho hai đứa hai dĩa cơm sườn. Nói bà Sáu cho anh Tài ghi sổ.

Năm ghé tai đại ca nói nhỏ:
– Thằng này cũng không vừa đâu anh Tài, nó chống cự đấm thằng Đực sưng mỏ …

Tài cười:
– Để cho tụi bây khỏi ỷ đông ăn hiếp …

Rửa ráy xong Năm dẫn hai anh em Lai ra trình diện đại ca Tài. Lai chắp tay trước ngực cúi đầu:
– Dạ hai anh em con cám ơn đại ca ….

Tài khoác tay:
– Thôi khỏi, kêu anh là anh như mấy đứa. Ăn no rồi vô đây nói chuyện…

Tài tập hợp  bọn em út chỉ Lai nói:

– Bây giờ thằng Lai cũng thuộc anh em mình, tụi bây đừng ăn hiếp nó. Hai thằng Đực, thằng Long đi kèm giúp đỡ nó. Còn thằng Lai theo mấy anh …

Đực miệng còn sưng vỗ vai Lai nói như mếu:
– Mầy có võ hả Lai? Mầy đấm tao một cái xém thấy ông bà ông vải…

Tài đốt điếu thuốc Ruby  hít hơi dài nhấp một ngụm cà phê sữa. Gu của anh là Ruby mặc dù anh dư đìều kiện hút Philip Morris. Anh vẫn nhớ đến những tháng ngày băng rừng vượt suối với anh em cùng đơn vị. Anh dấu kín không cho ai biết anh cũng dân mồ côi mất cha mẹ và đi bụi đời hồi còn rất nhỏ. Lai khiến anh nhớ lại thời thơ ấu cực khổ của mình. Nó còn dám vác theo một thằng nhóc trong khi thân ốc của nó chưa lo xong. Tâm địa thằng lai Mỹ Đen này khá quá!!! Tài thấy cảm tình với thằng nhỏ và duy nhất chỉ mình nó được ban nhiều ân huệ khi gia nhập vào băng bốc vác của anh Tài Trọc

Lai không còn phải lo miếng ăn chỗ ngủ cho hai anh em nữa. Nó lại siêng năng làm việc và rất biết điều nhường khách cho anh em. Khách thương kêu nó liên tục, nó khoẻ, ăn uống ngủ nghĩ đầy đủ nên làm việc không biết mệt, nhưng không muốn ôm hết lợi lộc cho riêng mình. Riết rồi cả băng – nhất là anh Tài Trọc – ai cũng thương Lai và Minh.

Chương 4

Lai bị bắt!!!

Buổi sáng hôm đó trời còn sớm anh em đang bận rộn khuân vác, thình lình hai xe jeep công an dẫn đầu, theo sau là xe cây (Cảnh Sát Dã Chiến xưa) chở đầy công an và dân phòng xịch lại. Gần chục mạng trang bị gậy gộc nhảy xuống vung túi bụi vào nhóm bốc vác đang la hét quăng đồ đạc bỏ chạy tứ tung… công an giải phóng cộng đám dân phòng hay chơi trò này để hốt những ngưòi không giấy tờ vô gia cư vô nghề nghiệp.

Đàn em Tài Trọc kinh nghiệm đầy mình nên chỉ cần quăng hết mọi thứ lủi vào khu vực chung quanh là thoát. Chỉ có Lai chưa bao giờ trải qua nên lớ ngớ khi nghe la “quăng hết, chạy” mới luống cuống. Thay vì theo đồng bọn Lai phóng về phía thằng Minh định chụp lấy em. Hai dân phòng ngáng chân Lai ngã xuống và tên công an giáng một dùi cui vào lưng Lai nghe cái hự. Lai té sấp mặt xuống đất hai tay ôm lấy đầu che chắn những cú dùi cui, đấm đá liên tục vào người. Hai dân phòng vừa đánh vừa chửi:
– Đ M mầy lai đế quốc Mỹ hả mậy, sao mầy không chạy về Mỹ theo thằng cha mầy còn ở lại chống đối cách mạng hả mậy.

Viên công an ý chừng thấy hành hạ Lai đã đủ, quất thêm hai dùi cui vào lưng rồi hét:
– Còng nó lại giải lên xe!!

Hai dân phòng nắm tay chân Lai quăng vào lòng xe cây. Vài người ngủ bờ ngủ bụi ở bến xe cũng bị hốt nhưng không ai bị đánh đập nặng như Lai. Cách mạng ghét Mỹ Ngụy mà không bắt được tên Mỹ nào đành dứt đở thằng lai đen này cho bỏ tức.

Lai mắt sưng húp cố ngồi dậy nhìn về phía Minh, đứa nhỏ khóc sướt mướt dang tay về phía chiếc xe. Lai nhìn em một lần cuối trước khi bất tỉnh. May quá trong khoé mắt nó kịp nhìn thấy một người đàn bà chạy ra ôm chầm lấy Minh lôi vào ngỏ hẻm mất dạng…

Lai bị đưa vào phòng giam quận. Thời gian ở đó là cực hình cho Lai. Mỗi bữa ăn nó nuốt cơm chan nước mắt vì ngày nào bọn công an cũng đánh đến nổi mặt sưng vù không thể mở miệng. Bụng bị đấm mỗi khi thở quặn đau từng chập như đàn bà sắp đến giờ sinh. Ngày chuyển lên trại giam tỉnh cần hai người tù dìu vào phòng và Lai ngủ li bì đến ngày hôm sau mới mở mắt nổi. Lai không hiểu được tại sao công an ghét mình như vậy?. Họ chở nó và vài người không biết tội gì trừ một tay ăn cướp xăm mình. Họ cũng không hỏi cung Lai (gọi là làm việc) coi nó như thành phần tứ cố vô thân gặp xui đúng vào ngày công an đi ruồng. “Bắt lầm hơn tha” lỡ biết đâu Mỹ Ngụy gài nó lại làm gián điệp chống phá? CIA ghê lắm chứ đâu vừa. Cho nên trong hồ sơ chuyển tù công an chấp pháp có ghi Lai ”Bị tìn ngi CIA gày lạy fá goại” (tay công an chấp pháp vốn đi chăn trâu hồi bảy tuổi theo du kích được dạy biết đọc biết viết rất hài lòng về ghi chú của mình, bất kể thằng Lai khai mới mười bốn tuổi)

Phòng giam tỉnh thời VNCH dành cho tù chính trị xây bằng gạch dài khoảng vài chục thước đủ chứa sáu chục, nay dưới quyền kiểm soát của cách mạng nhét gần hai trăm con người. Bọn tù mới hết hồn khi hơi nóng phả ập vào mặt lúc bước vào phòng. Trưởng phòng là một ông khoảng bốn mươi lăm, nét mặt không giống dân giang hồ cũng không phải đại bàng. Tù cũ cũng không lôi tù mới ra đánh chào phòng hay doạ nạt. (Sau này Lai mới biết đa số tù vốn dân thường, bị bắt về đủ thứ lý do, đặc biệt tội phản động chống phá cách mạng. Ông trưởng phòng thuộc số đó, ông gốc lính Nhảy Dù ”Ngụy” không chịu họp tổ dân phố còn chứa chấp truyền đơn hô hào lật đổ nhà nước. Bây giờ ông ngồi đây không biết chừng nào cách mạng cho về và được chỉ định làm trưởng phòng vì là người ở lâu nhất.)

Ngoài những người tù miền Nam thua trận, ngày càng nhiều viên chức cách mạng tham nhũng hối lộ và cả bộ đội. Những anh bộ đội móc ngoặc với dân bán đồ ăn cắp trong kho của Mỹ Ngụy để lại. Sống chung phòng giam Lai nghe nhiều chuyện lý thú và có khi lẫn cả buồn cười. Chẳng hạn một anh bộ đội khoe mình trong binh chủng đặc công đã từng ăn một trăm hai chục trứng vịt lộn. Anh bị bắt về tội hút xăng nhà nước đem tiêu thụ ngoài chợ đen.

Cũng có một anh già nằm vùng dê vợ sĩ quan ”Ngụy” đi cải tạo, bị đánh gãy sóng mũi, anh nằm vùng tức quá đem súng bắn vào nhà trả thù, lạc đạn chết đứa con. Hễ cứ mây u ám là anh chắt lưỡi tiên đoán thời tiết “Hôm nay trời có KHẢ NĂNG mưa!”. Đặc biệt hàm răng trống trơn mỗi lần trại phát cao lương thì cứ múm múm rồi nuốt trộng vậy mà bao tử vẫn tiêu hoá và vẫn sống nhăn răng.

Vui nhất có lần Lai chứng kiến một ông cụt tay hút thuốc lào say quay vòng vòng té chổng vó lên trời. Lai không hút thuốc nên không bị cái ghiền hành hạ như mấy ông đệ tử ống điếu, một người hút, ba bốn mạng xin sái. Cách mạng cấp phần ăn cho mỗi người được chén cơm không đầy nhưng đám con bà phước vẫn dám đổi phần ăn lấy ba bi thuốc lào, nhất là mấy anh lính miền Bắc. Lúc đầu Lai căm thù họ đã giết anh Trí, đã đóng cửa Nhà Mồ Côi khiến bọn trẻ tha phương tứ hướng, đã tù đày cha Giu Se và các Ma Sơ, nhưng dần rồi Lai cảm thấy tội nghiệp họ, như anh bộ đội Đặc Công khoe ăn hết một trăm hai mươi hột vịt lộn. Chắc anh ấy đói quá nên tưởng tượng…

Lai cũng từng chứng kiến thảm kịch do thuốc lào: một thanh niên cao lớn nghe nói từng là cầu thủ đá banh hút điếu thuốc sáng sớm té nằm dài thẳng cẳng, miệng sùi bọt mép mắt đứng tròng tưởng đâu hui nhị tì, vậy mà chừng phút sau thở hổn hển ngồi dậy xin bi nữa.

Một ông già người Bắc tướng tá nhỏ con. tới giờ xếp hàng chờ nổi lửa. Đến phiên, ông đón ống điếu chậm rãi, từ tốn nhồi thuốc mặc kệ những cặp mắt chòng chọc chờ đợi sái nhì sái ba của mấy thằng mồ côi. Rồi ông đưa mồi lửa vào nỏ hút một hơi dài đầy phổi. Ông nén lại, từ từ thở ra từng bụm dày đặc như ống khói tàu hoả… Đột nhiên ông ôm ngực buông cái điếu xuống đất. Mặt ông nhăn nhúm như đang chịu một nổi đau lớn. Cả phòng giam hốt hoảng khi nhìn thấy hai giòng máu chảy ra hai bên mịệng ông già. Ông thở mạnh ra một cái rủ người ngả vật… tắt thở!!

Đó là lần đầu tiên Lai – và có thể toàn bộ phòng giam – chứng kiến thuốc lào giết người!!. Trưởng phòng đánh cây vào song sắt buồng giam, la í ới:
– Báo cáo cán bộ phòng X có người chết…

Dù anh la nhiều lần nhưng phải mất gần tiếng đồng hồ sau y tá của trại và công an mới xuống mở cửa đem người chết ra ngoài để ngay trước chuồng cu (nơi phát cơm hàng ngày). Tối hôm đó người chết và người sống nằm kề bên, nhìn thấy nhau khiến nhiều người gần song sắt lạnh tóc gáy. Ông già bị bắt về tội âm mưu lật đổ chính quyền nay đã nhận lệnh tha trước thời hạn!

Trong tù người nào có thăm nuôi thì ít lo lắng vì nhà nước chỉ cấp khoảng chén lưng mỗi bữa bất kể là cơm, mì lát hay mì sợi. Thường nhất tù được chia bo bo – nghe nói dùng nuôi ngựa ở Liên Sô – rất khó tiêu. Lúc đó lương thực gia đình gởi sẽ đóng vai cứu đói. Thành phần hoàng gia thăm nuôi bao tải nặng phải hai nguời khiêng, bao càng bự càng có thần thế và càng được kính nể. Tù nhà giàu sướng như vua, đêm nào cũng có hai ba thằng con bà phước đấm bóp nghe dòn dã rất sướng tai

Tù không ưa Lai vì màu da và mái tóc xoăn nhưng nó chẳng thèm quan tâm. Lai cũng không nịnh nọt hay trộm cắp dù từng bị nghi oan như cái hôm một ông nhà giàu hô hoán mất hai gói mì và mọi người duỗi mắt về phía Lai như chính họ chứng kiến nó thò tay vào giỏ. Cuối cùng trưởng phòng tìm ra thủ phạm là anh cán bộ xã vào tù về tội tham nhũng.

Không hiểu linh tính mách bảo trưởng phòng thế nào mà ông chỉ định Lai vào toán chia cơm và niềm tin của ông chính xác vì cả phòng đều hài lòng cách chia rất công bằng của nó. Phần thưởng chỉ vài muỗng cơm dư dưới đáy thùng không hơn anh em bao nhiêu nhưng quý báu với bọn con bà phước. Lai nhiều lần chứng kiến những cặp mắt chăm bẳm vào chén chia cơm xem có đều tay hay không. Họ tranh nhau vài cục cơm nhỏ rơi xuống đất trên sàn gạch nhớp nháp in dấu hàng bao nhiêu bước chân qua lại của tù.

Mấy tuần trước phòng nhập vài tù mới có một thanh niên mình mập như phù thủng đầy ghẻ mủ. Trưởng nhóm chia cơm và Lai vốn quán xuyến luôn vệ sinh phòng, hè nhau đè nạn nhân ra đánh vảy cá. Anh ghẻ đau quá ngoác miệng la khóc bị tống vào mồm nửa táng đường thẻ, vội ngậm ngay lại mút lấy mút để vị ngọt. Hoá ra anh ghẻ là dân kinh tế mới, trốn về vì đói lại bị lây bệnh “ghẻ bộ đội” đang bùng phát.

Tù giam nên suốt ngày cứ lẩn quẩn trong khung viên bốn vách tường. Buổi sáng được phát nước sôi họ dùng pha bột, mì gói chuẩn bị bữa ăn sáng. Thực ra ngồi không người ta hay đói mà phần nhà nước cấp chưa chắc nuôi đứa con nít ăn no. Xong bữa sáng họ chia nhóm chơi cờ tướng, domino, hay chẳng làm gì cả chỉ vòng vòng, người có đạo thì vừa đi vừa lẩm bẩm đọc kinh. Vài nhóm tụ họp hút thuốc lào, thuốc rê dù nội quy không cho phép. Có nhóm nấu bao ny-lông đổ thành những bộ Domino hay cờ tướng rất đẹp. Cán bộ quản giáo chắc cũng biết nhưng ngó lơ.

Vui nhất là ngày thăm nuôi. Nhà giàu được tiếp tế xôi lạp xưởng, bánh chưng bánh tét, cháo gỏi gà. Con bà phước vui vì nhiều người sẽ bỏ cơm chia khẩu phần khiến họ được bữa no. Tù hoàng gia sau đó mời người cùng giai cấp rồi bày biện món ngon vật lạ ngoài đời chén chú chén anh với nhau – tất nhiên không bao giờ có sự tham gia của đám con bà phước.

Những ngày như thế thuốc lào thuốc lá đốt mệt nghỉ. Khi dư thừa người ta rộng rãi hơn, cho hẳn mấy anh bộ đội miền Bắc những bi thuốc lào to, nhiều anh còn đưọc ném một phần ba cục đường tán làm phước. Thăm nuôi trong tù cũng giống như mùng một tết ngoài đời.

Nhóm con bà phước của Lai gồm bốn mạng: thằng Ký ốm tong teo cao nhòng mười chín tuổi bị bắt về tội cướp trên xe lửa và ngoài hàm răng vêu như ông thủ tướng Đồng thì không biết nó dùng vũ khí gì để doạ người ta. Thằng Cầu mặt bủng da chì hai mươi hai tuổi là anh ghẻ được chữa lành nhờ phương pháp đánh vảy cá và phân nửa cục đường tán hôm nào. Cầu đi tù về tội xài ma tuý. Thằng Hoa mới đặc biệt: nó đói quá lê lết ngang một tiệm phở thấy anh công an đang thưởng thức liền kè tới gần rồi đột nhiên phun nước miếng vào tô. Khổ chủ còn chưa biết chuyện gì đang xảy ra thì nó vốc tay vào tô đưa sợi phở lên miệng, tội âm mưu cướp tài sản cách mạng. Hoa mới mười bảy tuổi lúc bị bắt.

Tuy Lai nhỏ tuổi nhất nhưng ba thằng lớn đều nể nang và nghe lời Lai. Mỗi bữa ăn tụi nó ngồi chung với nhau chia chút muối ớt xin được.

Có một chuyện mà đến giờ Lai vẫn không hiểu:

Anh Nguyễn Văn T. một thanh niên trên ba mươi tuổi, vào ngày Chúa Nhật tình nguyện nhường cơm trưa cho bốn đứa con bà phước. Lần đầu Lai ngỡ ngàng một mực từ chối vì ai cũng đói làm sao người này lại nhường phần cho người khác vốn không họ hàng bà con trong khi mình chấp nhận chịu đói. Nhưng anh T. khăng khăng, dứt khoát đổ ập phần cơm canh vào tô của Lai. Thời gian mọi người ăn uống anh đứng lên chắp tay sau đít đi vòng vòng miệng lâm râm như đang niệm Phật hay đọc kinh. Thế là buổi trưa cuối tuần nhóm Lai được thêm chén cơm từ thiện, bố thí bởi một ông Thánh hay một anh điên Lai thường tự hỏi?.

Ngày thăm nuôi nhà chắc nghèo nên quà chỉ gồm một gói nhỏ phần lớn là muối trộn tôm khô và ít bột gạo rang, đường tán, ít mắm ruốc, thêm bọc xôi đậu xanh ăn trong ngày. Anh không quên xẻ môt chén cho Lai; anh ít nói nên Lai không biết gì nhiều về đời tư ngoài tên tuổi cùng tội trạng âm mưu lật đổ chính quyền như đa số thành phần tù thời đó.

Không biết nhờ trưởng phòng đề cử hay trại giam xem xét hồ sơ, ba tháng sau Lai được chọn vào toán nấu cơm cho toàn trại. Buổi sáng quản giáo mở cửa phòng đưa Lai nhập bọn với chục tù lấy ra từ các phòng xuống nhà bếp tới tối mới trở lại phòng giam. Nhờ vậy Lai được ăn uống no hơn, hưởng không khí trong lành nhiều hơn. Điều tốt nhất là Lai xin được cơm thừa canh cặn về bồi dưỡng cho ba thằng con bà phước đang hóng mỏ chờ đợi trong phòng.

Mùa Hè thời tiết nóng như lửa. Hơn trăm người tù nhun nhúc trong căn phòng có sức chứa tối đa sáu chục. Tuy chưa chết đày xuống Hoả Ngục nhưng họ đã trải qua sức nóng đày đoạ ở đó như thế nào. Những người lớn bị rôm sảy nổi đầy như con nít, liên tục nhúng khăn vào nước lau mặt, lưng ngực. Mồ hôi chảy ra không ngừng, họ cố chen nhau trước khung cửa sổ để thở. Vài ông già xỉu lăn quay vì chịu không nổi khiến trưởng phòng kêu cứu liên tục nhưng quản giáo còn nhiều việc để lo toan nên mặc kệ, ăn nhằm gì tù xỉu vì nóng, chừng nào chết hẳn hay!!

Nhờ làm công tác nấu ăn Lai tránh được sự hành hạ sức nóng mùa Hè và trước khi trở về phòng giam còn được tắm tha hồ từ bể nước mưa của trại và thường lăn quay ra ngủ ngon lành khi đặt lưng lên chiếc chiếu. Nhưng nhiều đêm Lai cùng với toàn bộ tù thuộc mười phòng trong trại thao thức trước sức nóng kinh hồn cho tới thiếp đi vì mệt lả.

Cuộc sống cứ thế mà trôi, Lai tính ra mình cũng chịu gần ba năm mà không có ai cho biết mình bị bắt về tội gì. Lai như bị tách khỏi cuộc sống, chẳng biết tin tức bên ngoài trại giam. Thỉnh thoảng Lai nghe thằng Ký rấm rứt trong giấc ngủ khiến nó cũng mủi lòng sụt sịt theo. Hôm sau hỏi lại Ký không nhớ mình nằm mơ về chuyện gì nhưng Lai đoán Ký thấy bà mẹ già bị mù ở quê nhà. Nó muốn có chút tiền chăm sóc mẹ nên bằng lòng tham gia cướp xe lửa đầu tiên trong đời. Chẳng những không cướp được gì mà giờ nằm đây bỏ mặc bà cụ một mình không ai lo lắng

Bởi vì đa số dân NGỤY bị đi tù nên họ giữ được nhiều truyền thống ngày xưa, nhất là những ngày lễ lớn như Tết, Giáng Sinh Phục Sinh. Trước Giáng Sinh không khí đột nhiên nhộn nhịp lên. Tù người Công Giáo chuẩn bị sẵn bánh kẹo ngóng chờ đêm Thiên Chúa sinh ra đời trong hang đá ở Bê Lem. Không khí làm Lai nhớ những tháng ngày sống dưới mái Nhà Mồ Côi với cha Giu Se, các Ma Sơ – nhất là Ma Sơ Tê Rê Sa – anh Trí chị Hồng và anh em. Tim Lai chợt nhói lên khi nghĩ đến thằng Minh. Không ai hiểu tại sao Lai quan tâm một cách đặc biệt về thằng nhỏ, chỉ mình nó biết: ngày Ngọc Yến chị của Minh qua đời Lai đứng trước quan tài của Yến trịnh trọng thầm hứa trong lòng là nó sẽ thay mặt Yến chăm sóc Minh như chính em ruột của mình.

Lai không đoán được Minh giờ ra sao, gần ba năm rồi còn gì nhưng điều an ủi là có người ôm Minh tẩu thoát ngày Lai bị bắt. Nghĩa là ai đó sẽ chăm sóc Minh khiến nó yên tâm phần nào. Lỡ có chuyện gì tới với Minh, Lai đâu còn mặt mũi đối diện Yến.

Lai ít nói và tuy còn nhỏ nhưng hành xử hiểu biết như người lớn nên dần người ta bớt thành kiến với nó. Người Việt hễ cứ thấy con lai là ghét kể cả lai Tây hồi xưa hay lai Mỹ sau này. Họ chắc mẫm chúng nó một phần bị cha mẹ bỏ lơ hoặc xuất thân trại mồ côi không được dạy dỗ uốn nắn lễ phép, đạo đức. Họ ghét mà không biết lý do, cứ lai là ghét nhưng đặc biệt đầy ác cảm với lai Đen hơn Trắng. Lai đen là tận cùng của xã hội, thường bị ném bỏ vào mấy trại mồ côi, hay sống đầu đường xó chợ hoang dã như những hạt giống của trời.

Cho nên họ bất ngờ khi gặp một thằng lai đen ăn nói chững chạc, chia chác mọi thứ sòng phẳng công bằng và chưa từng nghe nó chửi thề bao giờ như người ta thường đinh ninh về tụi con lai. Nó tốt bụng nhường thức ăn xin nhà bếp về chia bạn kể cả mấy tù bộ đội không thăm nuôi. Nó chẳng tỏ vẻ ghét bỏ ai trừ cán bộ cách mạng ở tù. Nó được như vậy nhờ những tấm gương học ở Nhà Mồ Côi từ cha Giu Se, các Ma Sơ, anh Trí chị Hồng; kể cả Ngọc Yến những ngày con bé còn sống. Mỗi tối trước khi đi ngủ Lai dành vài phút nhớ hết về mọi người và kín đáo đọc một kinh Lạy Cha, ba kinh Kính Mừng, một kinh Sáng Danh mà Ma Sơ Tê Rê Sa vẫn thường dạy để xin Thiên Chúa chúc phúc và gìn giữ mọi người trong bình an. Lai tin rằng sẽ có lúc nó được gặp lại tất cả…

Vài tù nhà giàu thăm nuôi vẫy nó lại cho cái bánh ú. Dịp Giáng Sinh tù có đạo hùn nhau bột đường làm bánh Nô En như hồi ở ngoài đời. chờ nửa đêm tụ họp lại với nhau cắt cho mỗi người, vừa ăn vừa uống nước trà vừa… khóc. Họ nhớ những tháng ngày tự do đi dự lễ nửa đêm với gia đình vợ con. Tù mồ côi, cả các anh bộ đội cũng được chia phần. Giờ phút thiêng liêng không ai ghét ai nữa.

Nhưng họ phải cẩn thận sợ tụi ăng-ten báo cáo lên quản giáo, đó là đám cán bộ VC làm bậy bị tù nhưng vẫn xun xoe nịnh bợ hòng lấy điểm được thả sớm. Vài người không nén được xúc động cất tiếng hát nho nhỏ những bài Giáng Sinh xưa. Vài phòng giam có Linh Mục họ còn được xưng tội và rước lễ (Bánh và Rượu trước khi truyền phép được mấy ông trùm họ nhà thờ chuyển lậu vào phòng giam mà không bị phát giác). Có chứng kiến mới cảm nhận tù đón Thiên Chúa Giáng Sinh xem ra trang trọng sốt sắng hơn ngoài đời rất nhiều.

Dù sao tụi ăng-ten cũng kiêng dè vì sống giữa phản động không khôn khéo bị phát giác người ta trùm mền đánh cho bò lê bò càng, quản giáo ở xa không thể can thiệp.

Lai không nhớ chính xác ngày mình bị bắt nhưng nhẩm tính cũng đã sắp tròn ba năm. Nó giật mình vì thời gian trôi qua nhanh quá, hôm nào sống dưới mái nhà mồ côi vẫn còn mới tinh trong đầu. Ở đó nó được yêu thương không ai ghét bỏ hành hạ thù hằn. Thỉnh thoảng nó đưa tay lên cổ để nhắc nhở chuổi Mân Côi Sơ Tê Rê Sa tự tay đeo cho đã không còn. Nó nhớ trận đòn thù của công an khi bị giam ở quận, nhớ họ giật đứt tràng chuổi ném xuống đất đạp chân lên mà bất lực không thể làm gì được vì kiệt sức. Nó bậm môi nghĩ về người nữ tu nó luôn coi như mẹ ruột. Nó không thể bảo vệ nổi quà tặng Sơ đã giao, nhưng ít nhất cố gắng hết sức sống tốt như Sơ căn dặn trừ vài lần nói láo vì mạng sống.

Không giống như những người tù còn lại mong ngóng được tha về ngày lễ lớn như Tết, ngày “quốc khánh”, “sinh nhật bác Hồ”, “ngày khai sinh đảng” Lai sống bình thản như cánh hoa cọng cỏ ngoài đường. Chừng nào được tha thì về nhưng cũng có lúc nó tự hỏi đến ngày đó mình sẽ về đâu?. Mái ấm duy nhất là Nhà Mồ Côi và bà con thân nhân là những người kề cận bao năm giờ không biết đang phương nào và còn sống hay đã chết.

Sắp tròn mười bảy tuổi Lai vạm vỡ cứng cáp và thành một thanh niên đẹp trai. Nhờ cha hay mẹ nhưng Lai có sống mũi cao, cặp mắt to, da cũng không đến nổi đen cháy. Ba má nó chắc thuộc hạng thanh mai trúc mã hay ngưu lang chức nữ cổ tích Việt Nam mà Sơ Tê Rê sa hay kể cho tụi nhóc.

“Cách mạng” sinh ra từ bóng tối nên thích làm chuyện trong bóng tối. Chấp pháp cách mạng cứ chờ hai ba giờ khuya mới kêu tù đi “làm việc” (hỏi cung). Đó là đòn tâm lý trấn áp hay chấp pháp lợi dụng đêm khuya khiến bị cáo mất khả năng cảnh giác che dấu tội lỗi. Có khi sáng vừa làm việc ba giờ khuya lại bị lôi đầu đi lần nữa, nhất là những hồ sơ chưa hoàn tất.

Chuyện đó vừa xảy ra. Từ hồi bị bắt tới giờ công an chấp pháp hình như quên thằng tù tên Nguyễn Thanh Lai đang chèo queo. Hai giờ sáng thứ Sáu tuần trước đột nhiên chấp pháp cho quản giáo xuống phòng gọi nó đi “làm việc”. Họ đọc lại tên tuổi, nơi cư ngụ rồi ra lệnh nó điểm chỉ vào tờ đơn. Trưởng phòng sáng hôm sau nghe kể chuyện gật gù:
– Dậy là mầy hên dồi. Hồ sơ mầy kết thúc chắc mầy sẽ được cứu xét tha dề đó…

Lai không tha thiết lắm với việc sắp được trả tự do như ông trưởng phòng qua kinh nghiệm tính toán. Nó không biết tương lai sẽ đi về đâu khi bước chân ra ngoài. Trong này còn được chén bo bo….

Với “cách mạng” không ai đoán trúng ngày về. Quản giáo khuyên tù cố gắng cải tạo cho thật tốt, càng tốt càng mau về nhưng tốt thế nào chẳng ai rành. Nhiều người đột nhiên được kêu tên mà không thấy tiến bộ như anh bộ đội đặc công ăn một trăm hai chục vịt lộn – cứ nằm ườn thân ra, chẳng chịu học tập chính sách gì cả.

Đã có vài đợt thả tù như thế, phòng của Lai được gần một chục. Người về bỏ lại hết cho anh em thiếu thốn đủ thứ, chỉ đi mình không. Cùng cách thức thả tù là vài đợt đưa đi lao động cải tạo. Ngày nào tù không được mở cửa ra tắm nắng, phòng khóa tới giữa trưa; hôm đó hoặc sẽ có đợt cho về hoặc chuyển ra trại khổ sai.

Sau khi kết cung lệnh chấp pháp không cho Lai ra khỏi phòng giam nữa nên nó bị thất nghiệp. Nó không kịp biết tin nhà bếp được lệnh trích thêm gạo nấu ăn cho nhóm tù sẽ chuyển trại.

Buổi trưa quản giáo và hai tù đi tới từng phòng gọi tên, ai nghe đúng tên thì thu dọn đồ đạc ra khỏi phòng. Nhiều người mừng húm la hoảng tưởng mình được tha, nhất là những người đã ở quá ba năm. Ông trưởng phòng và Lai cũng có tên. Nét mặt ông rạng rở nháy mắt với Lai “Mầy thấy tao nói hay không” và tính bỏ lại quần áo chăn chiếu, thức ăn cho tới khi quản giáo gằn giọng ”Đem hết đồ đạc theo“.

Xe chở tù xếp hàng ngoài sân xa hẳn khu vực giam giữ nên trong này không thấy được. Khoảng trên dưới hai trăm con người xanh xao bệnh hoạn lần lượt xếp hàng lên xe. Ông trưởng phòng mặt mếu máo nghĩ tới không biết phải chịu bao lâu nữa mới được về với vợ con và hình như toàn bộ đều cùng một suy nghĩ như ông. Lai là người duy nhất không biểu lộ bất cứ cảm xúc nào vì với nó ở đâu cũng vậy thôi.

Xe chạy khoảng ba tiếng đồng hồ thì tới nơi. Nhìn từ ngoài không lớn nhưng khi vào trong mới thấy nó mênh mông những dãy nhà mái ngói xiêu vẹo giống như trại gia binh hồi xưa.

Chào đón đám tù mới là hai hàng người trần trùng trục ngồi dọc đối diện với bệ đá trước mặt đang đập nát những cục lớn thành từng đống những viên đá nhỏ. Người nào người nấy nhễ nhại mồ hôi chảy dài theo bụi bặm bám trên người. Chân họ mang cùm xỏ qua một thanh sắt dài y như những gì được mô tả ngoài Côn Đảo thời Pháp Thuộc. Những người tù mới có người bật khóc khi nhìn thấy viễn tượng của đời mình.

Một người trong hàng cùm đứng dậy ra dấu cho bạn:
– Chuyển tao thùng đạn coi…..

Thùng đạn được chuyển tới và người tù thản nhiên vạch quần ngồi phệch lên đi cầu. Những người còn lại không thể di chuyển vì một chân trong cùm vẫn tiếp tục phần việc coi như chuyện thường tình chẳng có gì phải ầm ĩ.

Tù mới được chia ra thành nhóm về những phòng trống trơn được chỉ định cho mình. Mỗi người nhận hai bộ đồ tù rồi leo lên giường tập thể – là những tấm ván kê xập xệ miếng cao miếng thấp – xỏ cả hai chân vào cùm hình chữ U có thanh sắt xuyên ngang không thể cục cựa gì được. Họ chịu trận cho tới chiều khi toán lao động trở về mới được chia cho chén rưỡi cơm và giới thiệu trưởng, phó phòng vốn là cán bộ Xây Dựng Nông Thôn từ hồi bảy mươi lăm còn sót lại. Chưa kịp hoàn hồn tù mới phải đối diện với kẻ thù độc địa không thấy bóng dáng: rệp.

Rệp sống dưới kẻ hở ván cây đánh hơi da thịt thơm tho mập mạp, xông ra tấn công quyết liệt. Trại giam sàn bằng xi măng không có rệp nên bây giờ tù đành cong người lên gãi. Tối hôm đó tù còn phải gân cổ học nội quy cho tới chín giờ đêm rồi mệt quá vùi đầu ngủ, thí mạng cho số phận và cho rệp…

Sáu giờ sáng kẻng đánh thức vang lên. Cả trưởng và phó phòng đồng loạt vừa la vừa rung cây sắt. Mười mấy mạng quen ngủ nướng ở trại giam vùng dậy ú ớ không nhận ra chỗ ở mới của mình cũng chẳng biết chuyện gì đang xảy ra. Họ được chia cho nước để rửa sơ mặt và súc miệng. Rồi họ ngồi tại chỗ cho tới khi trưởng phòng dẫn ra đập đá như họ chứng kiến hôm trước…

So với trại giam, cưỡng bức lao động khủng khiếp như địa ngục. Những người tù ốm yếu vì ăn không đủ nhưng phải lao động cật lực. Tù không thăm nuôi tướng rề rề rất dễ nhận ra bị gọi là âm binh vì đi đứng vất vơ vất vưởng như những hồn ma. Ông trưởng phòng ở trại giam tháng đầu tiên người nhà chưa biết tin nên thành âm binh cùng hạng với đám con bà phước. Những tháng ngày vật vờ, Lai bị điều đi vác đá tảng và hưởng phần ăn như nuôi con nít. Nó từng cắn răng nhìn đi chỗ khác không thò tay vào túi thăm nuôi của người ta để ăn cắp cục đường hay xốc tay vào thúng cơm tập thể vốc bỏ vào miệng. Nó rớt nước mắt nhớ lời căn dặn của Sơ Tê Rê Sa.

Nhưng bản năng sinh tồn con người vực nó dậy không cho phép nó chịu thua số phận. Mười bảy tuổi Lai không muốn mình gục ngã vì đói khi đời còn quá trẻ. Nó gắng chịu đựng hết sức mình, tính kiên trì của nó nhiều người nhìn thấy và họ cảm động. Ngày thăm nuôi có người cho nửa lon gạo, nửa ký khoai khô và nhờ đó nó khôi phục lại phần nào sức khoẻ. Nó rùng mình nhớ những ngày ráng nhai hai trái bắp cứng hơn đá từ sáng cho tới hết giờ, mà vẫn phải oằn mình khiêng những tảng đá bự.

Trong số quản giáo có một công an người miền Nam rất ghét Lai. Gặp dịp là hắn đày cho tới bến, nhưng rồi thái độ nhẫn nhục chịu đựng làm hắn chưng hửng không theo hành Lai nữa. Nghe đâu sau này bị đổi đi nơi khác vì hay đánh đập tù tàn nhẫn không lý do.

Thời gian đó Lai sụt ký thật mau nhưng nhờ tuổi trẻ và tinh thần phấn đấu nó cố gắng trụ vững không chịu thua. Một lần thấy anh em bị trượt chân khi khiêng khúc cây to Lai nhảy vào ghé vai chịu và lúc đưa được khúc cây lên mức an toàn Lai té xỉu. Ai đó báo cáo chuyện lên ban quản giáo, đề nghị cho Lai vào toán công tác nặng và được chấp thuận. Nhờ vậy Lai hưởng chút tự do như đi một mình từ phòng giam tới nhà bếp không cần người đi kèm, ngủ giường riêng và nấu nướng rau rác ếch nhái thu lượm trên đường đi công tác. Đổi lại phải khiêng vác nặng như cưa xẻ gổ, gánh gồng hàng chục cây số.

Nhờ ra ngoài đôi khi tiếp xúc với dân địa phương người ta tội nghiệp có lúc họ cho cả toán trái mít, ký khoai ăn tại chỗ. Thỉnh thoảng đi rừng đốn cây (đem về làm giường ghế cho cán bộ), họ bẫy dính con kỳ đà, thỏ, gà rừng nấu tại chỗ chia nhau ăn bồi dưỡng.

Lai ngày càng lấy lại phong độ thân thể vạm vỡ cao lớn. Nhưng vận xui không chịu rời xa Lai. Trại vừa mới nhận được vài công an miền Bắc đa số mới ra trường còn rất trẻ. Bọn này cực kỳ ghét tù ”Ngụy”, coi họ là những thành phần đáng bị bắn bỏ.

Một trong số đó có tên Nhị người gốc Thanh Hóa chỉ định làm quản giáo đi theo đội. Nhị cấm tiệt những đặc ân trước đây như quan hệ với dân địa phương và nhất là không cho phép nhận quà cáp người ta thương tình đem tặng. Nhị đặc biệt ghét Lai, quả quyết những thành phần như Lai chính là hậu quả của sự chạy theo Mỹ chống lại nhân dân và cách mạng thế giới

Một lần trở về sau chuyến công tác đi rừng Nhị đột nhiên ra lệnh khám xét bao bì chứa đựng đồ cá nhân của toán. Tới Lai hắn phát giác mấy chân nấm dại, hai con ếch đã lột da bèn vất đi và bắt Lai nằm xuống đánh thẳng tay ba gậy lớn vào lưng. Sau đó Nhị tống Lai vào biệt giam hai tuần về tội bất tuân thượng lệnh, và trở về lao động trong trại không được đi ra ngoài nữa

Hàng ngày Nhị đi ngang conex chỗ biệt giam của Lai hỏi vọng vào:
– Mày sợ tao chưa thằng con hoang?

Và chờ đợi:
– Dạ thưa cán bộ em sợ rồi…

Lúc đó Nhị mới cười khoái trá bỏ đi. Đôi khi bị chậm trả lời, Nhị hét lớn:
– À thằng này láo nhỉ, mầy muốn chết đói hả. Được chiều nay tao sẽ báo nhà bếp cắt phần mầy.

Rồi Nhị quay ngoắc mặc kệ lời van nài khốn khổ của thằng tù

Một hôm Lai ra ngoài lao động, được sắp xếp theo toán làm việc nhẹ đi trồng đậu xanh. Đang chăm chú gieo hạt Lai ngả chúi phía trước, điếng hồn vì đau đến sao xẹt trong đầu. Lai ngước lên bắt gặp gương mặt hùng hổ của Nhị tay còn lăm lăm khúc cây. Nhị sấn sổ:
– Địt mẹ thằng con lai, ai dạy mày gieo hạt như thế hả, mầy định phá hoại tài sản của trại à?

Vừa nói nó vừa dứ khúc cây vào đầu Lai. Lai hoảng hồn quỳ xuống chắp tay:
– Em xin lỗi cán bộ, em xin lỗi cán bộ!!!

Lai không biết mình sai chỗ nào vì đã từng học gieo hạt do cha Giu Se dạy hồi còn trong Nhà Mồ Côi nhưng đoán Nhị muốn hành nên cố đẻ chuyện. Trong một chốc Lai nhoáng ý tưởng nhảy lên bóp cổ thằng công an vốn chỉ đứng tới cổ mình. Nhị sẽ không kịp rút khẩu K54 bên hông và sẽ lìa đời ngay lập tức nếu Lai dùng hết sức. Lai cắn răng đến bật máu cố hình dung gương mặt và nụ cười của cha Giu Se đang nhìn nó nhè nhẹ lắc đầu…..

Buổi sáng ngày hôm đó như thường lệ tù tập hợp điểm danh chờ phân công đi lao động. Quản giáo cắt ba người ở lại phụ với tổ làm mộc. Thỉnh thoảng chuyện đó xảy ra khi có tù nào qua đời trong đêm và tổ mộc cần người đóng quan tài, khâm liệm khiêng đi chôn. Lai đã chứng kiến gần chục mạng ra nằm xếp hàng trên khoảng đất trống phía sau trại như thế, đa số chết vì kiệt sức và đói. Duy nhất có một tù trốn trại bị rượt theo bắn trọng thương rồi để cho chảy hết máu làm gương răn đe. Tù còn sống không biết chừng nào tới phiên mình nên tỏ vẻ dửng dưng bên ngoài, nhưng bên trong che dấu nổi thương xót người xấu số.

Kỳ này không biết “khách đăng kí” là ai trừ hai ông già trốn trình diện học tâp cải tạo bị bắt, bị đánh và nằm trong conex gần ba tháng nay. Hai ông được chuyển lên nằm trạm xá gần tuần lễ rồi vì liệt không cử động được chỉ còn thở hoi hóp

Lai và thằng bạn âm binh oằn mình cố gắng nâng bằng cáng tảng đá nặng gần trăm ký và hai thằng bước chầm chậm khiêng tới chỗ cần, đột nhiên một quản giáo xuất hiện gọi lớn:
– Nguyễn Thanh Lai

Lai điếng người. Nghe kêu tên chỉ có hai chuyện: vào biệt giam nằm, hay chuẩn bị chuyển tới trại mới khủng khiếp hơn (dành cho trọng phạm mà trong ba năm ở đây xảy ra một lần duy nhất). Quản giáo nhấn mạnh:
– Bỏ hết mọi thứ lại…
– Thưa cán bộ kể cả cơm trưa?…
– Kể cả cơm trưa!!!

Vậy chắc chắn nằm conex và ăn khẩu phần ba mươi phần trăm dành cho tù biệt giam rồi!! vận đen sao cứ đeo bám mãi…, Lai nhắm mắt thầm thì “Mẹ ơi con phó thác cho Mẹ, xin cứu con”

Cùng với Lai có khoảng thêm gần chục tù cũng được đọc tên. Lạ nhỉ sao đi biệt giam nhiều thế!!!

Toàn bộ tập trung ở hội trường chờ đợi vài người lao động xa chưa về tới. Tù nhìn nhau lo lắng không ai nói với ai lời nào, đa số thở dài nghĩ tới phải bắt đầu mọi thứ ở chỗ sẽ được chuyển đến.

Quản giáo cầm một xấp giấy, trịnh trọng đọc tên từng người, cuối cùng tuyên bố:

– Những anh vừa đọc tên sẽ nhận lệnh tha về với gia đình ngày hôm nay

Có người xanh mặt, có người ôm ngực không tin những gì tai mình vừa nghe. Một người ngồi kế bên Lai lẩm bẩm:
– Tự do, tự do….

Thế là thế nào? Sáu năm trời trải qua bao nhiêu gian khổ nước mắt nay kết thúc đơn giản như thế này sao? Tất cả chỉ vì màu da và mái tóc xoắn của nó sao? Thằng con nít mười bốn tuổi đầu không biết mình làm gì tội lỗi với “cách mạng” mà họ trả thù khủng khiếp đến như vậy. Rồi đây có dịp nó sẽ kể cho con cái cuộc đời mình với sáu năm hoang phí trong tù mà không hiểu tại sao….

Lai ngước mắt lên Trời thầm thì lời cám ơn, nó thực sự muốn quỳ xuống, trang trọng làm dấu Thánh Giá một cách cung kính nhất; nhưng không dám vì có thể bị giữ lại thêm ba năm nữa về tội “chọc quê cách mạng”. Bước vào trại giam vẫn chưa có râu mép mà nay đã trở thành một thanh niên chính chắn từng trải hai mươi tuổi đầu. Tuy khác xa về thân xác nhưng vẫn là Nguyễn Thanh Lai đôn hậu, rộng lưọng, hiền lành với trái tim hay xúc động khi nhìn thấy sự đau khổ của người khác.

Chương 5

Trên đường trở về đầu óc Lai mênh mang tận đâu đâu. Cùng trên chiếc xe đò có mấy tù mới thả cũng hướng về Sài Gòn, số còn lại đã chào từ giả nhau khi vừa rời khỏi cổng. Không ai dám quay đầu nhìn, cố nhanh chân bước cho xa. Vài người kịp mặc đồ dân sự thay cho đồ tù bỏ lại. Họ không muốn bị nhận dạng tù được tha, rắc rối với địa phương nơi họ sẽ trở về. Có người  từng là cán bộ Xây Dựng Nông Thôn hay sĩ quan Cảnh Sát Đặc Biệt bị cải tạo từ hồi VC mới chiếm được miền Nam. Họ không biết người ngoài đời sẽ đối xử với mình ra sao; biết đâu người ta sẽ ghét họ và ném đá như đã từng xảy ra với tù binh phi công Mỹ?

Lai vẫn mang đồ tù trên người. Hắn chẳng quan tâm phản ứng của dân sinh sống trong miền Nam vì biết rằng họ vẫn giữ cảm tình với những người bị tù tội trong chế độ VC. Hắn xem lại tờ Lệnh Tha, để ý  ghi chú nơi cư ngụ là “Bến Xe Xa Cảng Miền Đông”. Cũng tốt vì hắn muốn trở về nơi chốn cũ sau thời gian dài xa vắng…

Xa Cảng Miền Đông vẫn tấp nập như ngày nào. Không ai nhận ra Lai và hắn chẳng nhìn thấy gương mặt thân quen nào của ngày xưa. Anh em trong băng anh Tài Chùa đi đâu hết rồi?
– ”Ê… Ê… Đ M tránh ra coi. Đụng thấy mẹ mầy bây giờ…

Lai ngờ ngợ, quay đầu lại:
– Anh Năm hả..
– Trời đất ơi, Lai… Lai hả

Đúng là Năm người đã dắt dìu Lai những tháng ngày bốc vác bến xe. Năm quăng xe đẩy ôm chầm lấy Lai.
– Nghỉ! hôm nay tao nghỉ, không làm nữa. Đi với tao đi nhậu …

Năm lôi Lai vào một quán cóc bên đường. Năm gọi với phía trong:
– Chị Hai ơi cho cái lẩu lươn với xị rượu thuốc nha. Hôm nay tôi có thằng em lâu quá mới gặp phải nhậu một bữa với nó.

Năm nhìn Lai chằm chằm từ đầu tới chân:
– Mầy thiệt hả Lai, còn sống thiệt hả. Ai cũng tưởng mầy bị bắt cải tạo mất xác rồi chớ…
– Tui nè anh Năm. Anh Tài Chùa và mấy anh em mình đâu hết rồi anh Năm…

Năm khóc rống:
– Anh Tài chết rồi. Tại ảnh bênh vực cho bà Hai lê ghim bị tụi dân phòng xô sập cái bàn rau cải chiếm lòng lề đường. Tụi nó hè nhau đánh ảnh bằng báng súng. Tức quá ảnh giựt súng của công an bị nó bắn chết bỏ thây ngay trên đường tới chiều tối mới chịu cho xe chở đi. Anh em từ đó cũng bải hoải rã rời tan đàn xẻ nghé mạnh thằng nào thằng đó sống. Anh Năm cũng lớn rồi nên trụ lại đây. Đâu có ngờ nhờ đó mà gặp lại thằng em mầy. Cha thấy mầy cao lớn ngon lành quá há …

Lai nhắm mắt mường tượng cái đầu trọc lóc của anh Tài, nhớ tới người đàn anh hành xử rất xứng đáng cương vị đại ca. Lai miễn cưỡng nhận ly rượu từ tay Năm:
– Em vẫn chưa uống rượu được nhưng để kính anh và để tưởng nhớ anh Tài và anh em em xin cạn ly …

Lai nhận ly rượu bằng hai tay và uống cạn. Chất lỏng cay nồng chảy qua cổ họng làm Lai nhăn mặt nhưng những ly kế tiếp trở nên dễ dàng hơn; và khi Lai gục xuống bàn hắn chợt nhớ mình chưa kịp thăm hỏi gì về thằng Minh…

Buổi sáng thức dậy Lai thấy mình nằm trên một chiếc giường trong quán trọ kế bên có mảnh giấy ghi vội ”Ra chỗ quán chị Hai tao chờ”. Tới nơi đã thấy Năm ngồi đó một mình. Năm ra dấu cho Lai:
– Ngồi xuống uống cà phê đi thằng em…
– Anh Năm biết tin tức gì về  Minh cho tui hay, tui nóng ruột về thằng nhỏ quá!!

Năm gật gù:
– Mầy hỏi đúng chỗ rồi em. Chị Hai ơi có người muốn gặp chị …

Một bà trung niên ở phía trong bước ra, tóc bới cuộn sau vai hất hàm:
– Gì đó chú Năm?
– Thằng này là thằng Lai hồi trước cũng là em của anh Tài. Nó anh thằng Minh đó. Còn đây là chị Hai người nuôi dưỡng thằng Minh trong lúc mầy vắng mặt…

Chị Hai bắc chiếc ghế ngồi xuống:
– Uả chú là anh thằng Minh hả. Tui tưởng nó không còn ai bà con…

Lai kể chị Hai nghe  mình nhìn thấy người đàn bà ẵm Minh chạy trốn ngày bị bắt. Hoá ra là chị…

Chị Hai nắm lấy tay Lai kéo vào phía trong:
– Nó ở đây nè…

Lai nhìn thấy tấm hình Minh nhỏ xíu trên bàn thờ chắc lúc mới vào Mẫu Giáo. Lai bật khóc, chị hai kể tiếp:
– Nó đi học về, mới bước chân tới đầu hẻm thì bị xe gắn máy chạy tốc độ cao đụng té đập đầu xuống đất. Người lái là công an phường mới đi nhậu về còn đang say xỉn… Rốt cuộc vì do công an gây ra nên mọi chuyện cũng chìm xuồng. Bây giờ em về rồi chị trả lại cho em. Tội nghiệp thằng nhỏ dễ thương hết sức chị tính viết đơn xin nó làm con nuôi để hai mẹ con hủ hỉ với nhau…
– Thôi chị đã có ơn dưỡng dục cứ để nó ở đây với chị. Em nay tứ cố vô thân không lo gì được …

Lai tạm sống với Năm những ngày kế tiếp.  Không giấy tờ tùy thân ngoài tờ lệnh tha nên Lai cũng không biết làm thế nào kiếm chỗ cư ngụ hợp pháp. Hôm sau lục lại trí óc nhớ mang máng nơi dòng tu Ma Sơ Tê Rê Sa có lần đề cập, Lai bèn mượn chiếc xe đạp đi tìm; may mắn đến đúng chỗ.

Sơ Tê Rê Sa ôm ngực khi gặp Lai:
– Ôi Chúa Mẹ ơi! Lai đó hả con, con từ đâu trở về vậy con?

Và hàng chục câu hỏi khiến Lai không kịp trả lời. Trông Ma Sơ vẫn vậy, roi người và nét mặt hiền hậu như ngày xưa. Mấy Ma Sơ kia đều khoẻ nay phục vụ trên các địa bàn, tạ ơn Chúa và Mẹ Maria, Sơ cười rạng rỡ nói.

Khi Lai hỏi về cha Giu Se, Ma Sơ Tê Rê Sa chợt thở dài ủ rủ kể:
– Cha đã qua đời sau vài năm bị chuyển ra những trại giam kinh khủng nhất miền Bắc. Có người ở chung với cha được tha về báo tin; cán bộ cho là cha cố tình chống phá nội quy trại khi cứ tiếp tục các mục vụ và ăn chay hãm xác chia phần cơm tù của mình cho anh em chung quanh. Nhiều người cảm phục gương sống của cha bí mật xin chịu rửa tội thành con chiên. Họ nói cha chính là chứng nhân thực sự của tình yêu. Cuối cùng quản giáo đưa cha vào kiên giam và bỏ đói cho đến chết.

Sơ run rẩy làm dấu Thánh Giá lên ngực. Lai gục đầu nắm lấy tay người Dì Phước đặt lên tim mình thầm thì một lời cầu nguyện ngắn cho vị Linh Mục. Bây giờ chắc cha đang ở trên Thiên Đàng cùng với anh Trí, Ngọc Yến và cu Minh tận hưởng hạnh phúc bình an bên cạnh Thiên Chúa Đấng mà cha luôn tôn thờ và theo gương.

Lai ngẩng mặt lên hỏi nhỏ:
– Thưa Ma Sơ có biết gì về chị Hồng không?

Ma Sơ Tê Rê Sa rạng rỡ:
– À có. Hồng đã lập gia đình. Hai năm trước Hồng vẫn liên lạc với Ma Sơ và báo cho biết đã theo chồng về ngoài Trung. Hai vợ chồng có một đứa con trai đầu lòng đặt tên là Trí. Hồng khoe với Sơ là hai vợ chồng rất hạnh phúc tuy đời sống không được khá giả. Chồng làm nghề ngư phủ theo ghe ra khơi đánh cá. Nhưng hai năm gần đây Sơ không còn nhận được thư từ liên lạc gì nữa …

Ít nhất chị Hồng cũng tìm thấy hạnh phúc, ít nhất một người thân quen đã tìm được lẽ sống cho đời mình. Hay linh hồn anh Trí đi theo chị Hồng và phù hộ cho chị? Khi mọi chuyện ổn định chắc chắn Lai sẽ ra ngoài đó tìm thăm chị một lần theo địa chỉ cũ.

Đột nhiên Ma Sơ như nhớ ra điều gì, reo lên nói với Lai
– A, Sơ có cái này dành cho con. Ngồi chờ Sơ một chút…

Rồi Sơ đi vào trong. Lát sau bước ra tay cầm một chiếc hộp nhỏ Sơ trao cho Lai nói:
– Con mở ra xem

Trước mặt Lai là một tờ giấy đã ngả màu vàng cũ. Lai xúc động nhìn thấy tên mình, ngày sanh tháng đẻ cùng với tên người sinh ra. Bây giờ Lai mới biết má tên gì và ngày giờ mở mắt chào đời hai mươi năm về trước. Sơ Tê Rê Sa hãnh diện nói:
– Mẹ Bề Trên đưa hồ sơ trong Nhà Mồ Côi cho Sơ cất giữ và tình cờ Sơ nhìn thấy Giấy Khai Sinh con trong đó. Sơ giữ gìn cẩn thận chờ trao lại cho con…

Lai chợt nhận ra mình không còn cù bơ cù bất từ trên trời rơi xuống như vẫn tự nhủ. Mồ côi nhưng cũng có nguồn gốc theo tờ giấy đã ngả màu vàng cũ kia. Một món quà ngoài sự tưởng tượng …

Lai biết không thể nương nhờ mãi vào Năm. Hắn mời người anh em giang hồ đi quán cà phê tâm sự:
– Anh Năm tui biết lòng tốt của anh nhưng tui cũng đã lớn khôn phải tự lo lấy cho bản thân mình. Ở đây tui buồn quá nhiều kỷ niệm chung quanh không quên được về anh Tài, và  anh em đã xử tốt với tui hồi đó. Bây giờ tui  đi nhưng luôn luôn nhớ về anh em và anh. Hễ có dịp tui sẽ về thăm anh …

Năm thở dài:
– Tao cũng sẽ nhớ chú em mầy. Em đi giữ gìn sức khoẻ, có gì trục trặc thì báo cho anh biết. Cố gắng liên lạc với nhau thường xuyên. Anh gởi chú mày chút ít làm vốn lúc ban đầu. Đừng ngại, anh em mình với nhau, sau này trả lại anh cũng không muộn. Cứ cầm lấy cho anh vui…

Năm nhét vào tay Lai hai chiếc nhẫn vàng nặng một chỉ mỗi chiếc. Lai biết tánh Năm nhưng thật lòng trong thâm tâm không muốn nhận vì biết đây là đồng tiền mồ hôi nước mắt phòng hờ cho hậu sự mà người anh em giang hồ chắt chiu lâu nay. Lai nắm tay Năm trong hai bàn tay mình gặt gặt:
– Đàn em sẽ không bao giờ quên giây phút này…

Lai ôm người đàn anh siết chặt rồi buông ra bắt tay, quay bước nhanh không muốn ai chứng kiến nét mặt. Hắn không biết sẽ có dịp nào quay trở lại. Xốc ba lô nhỏ trên vai Lai tìm xe hướng về trung tâm Sài Gòn – nay bị mang tên là thành phố HCM – chẳng quan tâm ngày mai đời mình sẽ ra sao.

Sài Gòn vẫn nhộn nhịp người qua lại buôn bán nhưng không còn sinh khí của thủ đô VNCH hồi xưa. Ai cũng vội vã bày đồ đạc tứ tung trên lề đường. Những gì có thể bán ra tiền người Sài Gòn trưng hết cho bàng dân thiên hạ chiêm ngưỡng. Tủ thờ, hộp biến thế, bánh xe đạp thượng vàng hạ cám, miễn kiếm vài đồng mua gạo nấu cơm. Không còn người Sài Gòn quần là áo lượt thanh tú như ngày xưa. Cũng không nhiều xe gắn máy vì xăng dầu mắc mỏ đa số đem xe đạp treo gác bếp hồi xưa xuống sửa chữa lại xài. Con gái Sài Gòn bớt áo dài hoa lệ, thay vào đó họ cố gắng ăn mặc giản dị để hòa đồng vào lớp dân mới đến từ miền Bắc xa xôi hoang dã. Người Sài gòn cũng bắt đầu học làm quen với bo bo, mì sợi, khoai lang những thứ chỉ dành nuôi heo thời trước Bảy Mươi Lăm.

Sài Gòn và người Sài Gòn đang hấp hối…

Lai chợt phát giác dân chúng ngoài đời cũng chẳng sung sướng no đủ hơn trong tù bao nhiêu. Họ cũng ăn thức ăn như tù tuy hơi nhỉnh hơn một chút; nhiều người chịu nhịn đói triền miên vì tình trạng thiếu lương thực cả nước.

Khách thu mua những đồ đạc quý giá trong Nam, trớ trêu thay là các anh chị nhà quê ngoài kia. Họ sẵn sàng mua cái tủ lạnh bất kể giá bao nhiêu  để làm đá cục đem mút với nhau thích thú vì cả đời chưa từng biết đá cục ra làm sao.

Lai tìm chỗ bán một chiếc nhẫn lấy tiền xài. Buổi chiều ghé qua quán cơm bình dân ăn no bụng rồi kiếm một sập hàng trống nằm lăn ra ngủ. Sống sót sau sáu năm tù “cách mạng” thì chẳng có gì thành vấn đề nữa.

Buổi sáng thức dậy sớm Lai đi loanh quanh tìm chỗ cần phu khuân vác, đặc biệt khu vực xuống rau cải, cá tươi. Hàng lên từ miền Tây bằng xe tải lớn nên rất cần xả hàng nhanh chóng để phân phối nên chủ vựa dễ dãi việc chọn người. Thấy Lai cao lớn dư sức khuân vác nặng họ nhận liền.

Ngày đầu tiên ra quân kiếm đủ sở phí cho sinh hoạt Lai thấy vui. Hắn nhớ lại thời cùng khuân vác với băng Tài Chùa ở Xa Cảng Miền Tây. Cực nhưng anh em nâng đỡ lẫn nhau đầy tình huynh đệ. Buổi tối Lai thuê chiếc ghế bố trong khu nhà cho khách vãng lai tương đối yên tĩnh. Ăn uống cũng không khó khăn miễn có gì nhét vào bao tử: cơm độn khoai mì, bo bo, mì sợi nhà nước bán cho dân…. thỉnh thoảng gặm khúc bánh mì mua ở lề đường …

Dân chợ bắt đầu quen với chàng thanh niên da đen cao lớn nhưng dễ thương và nhũn nhặn. Họ đơn giản gọi hắn là Đen không quan tâm tên thật. Họ nhận xét hắn siêng năng, lễ phép – hiếm gặp nơi chợ búa – nên có cảm tình. Họ thường xuyên kêu réo nhờ hắn bốc vác giúp đở vận chuyển những khối hàng nặng. Lai sẵn sàng ghé vai không kèo nài khó chịu, thậm chí không cần lấy tiền công. Riết rồi ai có chuyện cũng nhờ cậy đến sự năng nổ xốc vác của thằng ”Con Đế Quốc Mỹ” như bạn hàng thường trêu chọc.

Thỉnh thoảng phường cho công an xuống tra xét giấy tờ, mục đích làm khó dễ bạn hàng kiếm chút tiền cà phê cà pháo. Họ biết Lai mới ra tù nên gom luôn về làm việc nhưng rồi buổi chiều lại thả ra vì Lai tứ cố vô thân chẳng chấm mút được gì. Công an quen mặt Lai, cũng chẳng thấy Lai làm gì phạm pháp nên để yên.

Một lần họ đi ruồng ban đêm chụp Lai lên phường nhốt. Bà con chủ sập xôn xao, nhờ người biết chữ viết tờ đơn bảo lãnh kèm với “phong bì có nhưn”. Công an đành thả vì lúc này không thể muốn bắt ai bỏ tù như hồi xưa, hơn nữa Lai sống cũng không phiền nhiễu, vi phạm an ninh hay làm gì bậy. Thậm chí bây giờ công an khu vực đi tuần tra thấy hắn còn giơ tay chào thân thiện.

Cuộc sống khuân vác coi như cũng tạm yên. Bạn hàng sẵn sàng giúp gì được Lai là họ giúp và hắn cũng không từ chối việc họ nhờ. Đổ mồ hôi kiếm bát cơm là điều mà cha Giu se vẫn thường nhắc nhở đám trẻ mồ côi ngày xưa. ”Không làm đừng ăn” cha thường chọc tụi con nít.

Mấy lần Lai trở về bến xe tìm anh Năm vì muốn anh cùng lên chợ làm với mình nhưng chị Hai bán quán nói anh đã bỏ về quê vài ngày sau khi Lai từ giã. Chị Hai nói anh không để lại địa chỉ nhưng nhắc nếu Lai trở về thăm thì nhắn Lai cố gắng sống cho tốt, anh em có duyên sẽ gặp lại. Lai biết Năm không muốn Lai tìm gặp anh để trả nợ hai chỉ vàng…

Một hôm công an quận phối hợp phường và dân phòng càn quét lòng lề đường. Trước đây khi phường chủ động, công an thường đi ngang nhắc nhở vài tiếng, bạn hàng đáp lại dúi “phong bì có nhưn”. Rồi đâu cũng vào đấy, hai bên đều thoải mái vì quá quen mặt nhau.

Lần này quận bố trí thêm đám dân phòng, chúng năng nổ dữ dằn còn hơn công an. Một tay trung niên mắt chột hùng hổ đạp đổ sạp của bà già bán trầu cau. Hắn chụp luôn cái mẹt đựng nhang đèn ném vãi ra giữa đường bất kể bà già vừa chắp tay lạy vừa khóc. Tới chỗ kế tiếp hắn túm tóc đứa bé gái chừng mười ba tuổi, đá tung cái bàn nhỏ chứa  mấy trái xoài, sa-cô-chê, cóc ổi và lôi con bé cho công an giải lên xe cây …

Lai nhìn thấy hết máu nóng chạy rần rần cả người và trên mặt. Hắn nhớ trận đòn khi bị bắt sáu năm về trước cũng do đám dân phòng. Hắn ngồi né mặt vào một cái lùm không để ai thấy tránh rắc rối. Hắn sợ bị gởi đi tù  lần nữa và trong khi trái tim giục đứng lên can thiệp thì đầu óc hắn lại thầm thì bảo hãy tránh đi chỗ khác.

Cuộc càn quét kéo dài tới trưa mới chấm dứt. Quang cảnh giống như bãi chiến trường, đồ đạc vung vãi tứ tung. Đám nạn nhân vừa cố gắng gom góp được gì hay nấy vừa khóc ròng than thở ”Chiều nay cả nhà ăn cái gì đây chời?“

Lai lân la hỏi thăm tin tức về tay dân phòng chột. Người biết chuyện kể hắn trước đây là Việt Cộng nằm vùng, sau về hưu làm dân phòng. Hắn tên Hai Hùng hung thần của những bạn hàng buôn thúng bán bưng. Hắn hành hạ đánh đập không thương tiếc bất kể người già con nít. Bạn hàng lề đường sợ Hai Hùng như sợ cọp.

Cuối cùng Lai cũng dò tìm ra địa chỉ của hắn. Lai bỏ hẳn một ngày nghiên cứu khu vực và giờ giấc đi đứng. Mỗi sáng khoảng bốn giờ Hai Hùng dậy sớm ra công viên chạy tập thể dục trước khi lên quận nhận công tác. Công viên thời gian đó cũng rất vắng và Lai biết đoạn đường Hai Hùng sẽ chạy ngang qua.

Ngày thứ ba Lai dậy sớm đạp xe sang công viên ngồi chờ ngay khúc đã chuẩn bị. Theo thói quen khoảng bốn giờ mười lăm Hai Hùng đã xuất hiện trên đường chạy. Đến vòng thứ hai hắn chới với không kịp né khúc cây bằng cườm tay quất mạnh vào lưng làm té sấp xuống đất bất tỉnh. Lai tới gần quan sát, lấy sức đập gãy ống quyển nạn nhân nghe cái rốp. Lai nhảy lên xe,  đạp đi vừa lẩm bẩm:
– Hết còn hại ai nữa nha Hai Hùng…

Ngày hôm sau cả chợ biết Hai Hùng bị đánh què cẳng, đang nằm nhà thương băng bột. Chuyên xì ra từ cái miệng hay nổ của tay công an khu vực nhưng qua lời đồn đại của dân chợ bèn trở thành hình phạt Trời Phật làm. Và khi ghé sạp mấy bà bán thịt tự sự biến thành Tề Thiên Đại Thánh vâng lệnh Phật Bà Quan Âm đón đường dùng thiết bảng đánh cho Hai Hùng mấy hèo đi hết nổi.

Sau này dẹp lòng lề đường không còn nhiều dân phòng theo công an phùng mang trợn mắt ăn hiếp bạn hàng nữa. Nếu phải làm gì đó cũng miễn cưỡng  kèm theo lời phân bua:
– Bà con thông cảm chỉ vì miếng cơm manh áo chớ thực sự anh em tui không dám làm phiền bà con…

Lai thấy và nghe hết nhưng giữ im lặng không bình phẩm. Ai cũng vì miếng cơm manh áo cực chẳng đã phải bày hàng bán lề đường kiếm chút gạo cũng như dân phòng giúp công an giữ gìn trật tự nhưng vượt quá giới hạn cho phép hành hạ đàn áp dân lành thì xảy ra chuyện như Hai Hùng cũng không ai thương xót

Công an mới đầu lấy lời khai chút đỉnh từ Hai Hùng nhưng hắn kể lúc đó trời còn tối, gậy từ phía sau đập tới nên không nhìn thấy chi tiết gì về thủ phạm. Hơn nữa  Hai Hùng chỉ là dân phòng không phải công an nên thời gian ngắn sau sự vụ chìm xuồng không tìm ra thủ phạm. Hai Hùng giờ chống gậy đi bán vé số kiếm sống thỉnh thoảng bị xô té sóng soài trên lề đường như những nạn nhân của hắn trước đây.

Uy tín Lai ngày càng cao. Các chủ vựa réo Lai liên tục và họ che chở hắn nếu có chuyện phiền phức với công an. Thực ra ngoài chuyện ở tù về hắn chẳng phạm bất cứ sai sót nào ở địa phương. Thỉnh thoảng xảy ra trộm cắp trong khu vực công an lại ”mời” Lai về phường vài tiếng đồng hồ  chờ bạn hàng lên lãnh. Công an sẵn sàng tha Lai về sau khi được lì xì ít tiền đi uống cà phê.

“Lính”
về đầu quân với Lai ngày càng nhiều vì Lai đối xử với anh em y như ngày xưa Lai học từ Tài Trọc. Đa số họ lớn tuổi, từng cầm súng đánh nhau với bộ đội miền Bắc nên Lai tôn trọng họ như chú bác của mình. Buổi chiều nghỉ việc lao động cả nhóm tụ họp nhậu chút đỉnh; lúc đó họ kể những chiến tích, nhắc nhở đồng đội thương tật hay đã ra đi vĩnh viễn. Lai giờ uống được chút rượu bia, lăn tìm chỗ ngủ khi quá đà.

Trong số  dưới trướng Lai đặc biệt chăm sóc tình cảm với Tiến Cò. Tên đầy đủ là Nguyễn Văn Tiến long nhong như cò hương nên có biệt hiệu. Chuyện Tiến gặp Lai  như thế này:

Buổi tối  hôm đó Lai ghé thăm anh Ba Huy, sẵn bạn bè lối xóm nên nhận lời ở lại uống vài ly. Anh Ba trước là lính Lôi Hổ thường kể chuyện nhảy toán và chắt lưỡi nhìn Lai:
– Chú mầy làm tao nhớ thằng David, trung sĩ hiệu thính viên. Nó chịu chơi và gan dạ từng cõng một Biệt Kích người mình băng rừng tới chỗ triệt thoái. Có lần nó xô tao khỏi mũi lê của Việt cộng và giết chết thằng nhỏ chỉ bằng hai bàn tay ….

Hôm đó Lai vui chuyện uống say mèm và ngủ lại…

Giữa đêm Lai thức dậy đi bộ về nhà. Tới ngõ hẻm có ống cống bự bên lề đường Lai ngạc nhiên thấy đầu ra bên kia hình dáng một bóng người nằm sóng soài trên đất. Hắn ghé mắt nhìn vào lòng ống thấy chiếc xe Honda 67 còn kẹt lại hai phần ba. Người chủ dáng vẻ như công an mang một sắc cốt  ngang ngực, mùi rượu nồng nặc từ quần áo. Lai đến gần quan sát  nhận ra hắn đã chết. Lai quan sát chung quanh rồi nhè nhẹ gỡ sắc cốt kiểm soát bên trong: ngoài ít giấy tờ còn  một còng số tám và khẩu súng K54. Lai  nhón lấy cái còng và khẩu súng nhét vào bụng, biết những thứ này sẽ có lúc cần dùng đến. Trời Sài Gòn giới nghiêm giữa đêm đường sá vắng tanh Lai len lỏi dọc theo ngóc ngách ngõ hẻm trở về nhà. Hắn dấu mọi thứ dưới chân giường rồi leo lên đánh một giấc …

Buổi sáng đang cùng anh em làm việc Lai thấy một thằng nhóc khoảng mười sáu mười bảy ngồi trong một quán cóc cà phê uống ly trà đá và nhìn về hướng Lai. Ngạc nhiên nhưng bình tỉnh Lai tới bên thằng nhỏ ngồi xuống nói:
– Em muốn gặp anh có chuyện gì hả?
– Dạ em có chút thắc mắc muốn hỏi anh. Nói chuyện ở đây êm không anh?
– Em muốn thì về nhà anh thoải mái hơn…

Về nhà Lai bắt ghế ngồi:
— Sao có chuyện gì vậy em trai?
– Dạ em tên Nguyễn Văn Tiến, em mồ côi không thân nhân họ hàng. Em lượm ve chai để kiếm sống. Em có chuyện này muốn thưa với anh:

Anh nhớ hôm ở trong công viên? Hôm đó em ngủ cách có một bụi cây nên chuyện của anh em thấy hết. Khoan, anh đừng nóng giận, em không phải người xấu. Em cũng biết Hai Hùng và những hành động của ổng. Em nhận ra anh vì lúc đó em bật ngồi dậy theo tiếng hét của Hai Hùng thì anh vừa chạy tới. Em nhớ mái tóc nên em dò hỏi tìm được anh. Em nhát không dám gặp lúc đó nhưng vẫn theo anh vì hành động anh hùng của anh….

Ngày hôm qua em đang đếm tiền và ăn đồ dư xin được trong mấy nhà hàng thì anh đi ngang qua. Em cũng thấy chuyện chỗ ống cống… Em muốn gặp anh chỉ xin anh môt điều: xin anh cho em theo làm em anh….

Lai hết hồn, tím mặt. Nhưng nếu nó là người xấu hẳn hắn đã không còn ngồi ở đây!
– Vậy sao em không đi báo công an?
– Em đâu phải tụi chỉ điểm chó chết. Em thích hành động của anh, em biết chọn theo anh là đúng đường…
– Nhưng mà anh đâu phải đại ca hay trùm giang hồ. Theo anh ích lợi gì đâu?
– Em mồ côi chịu khổ từ nhỏ em chỉ muốn có một người anh chứ em đâu tìm kiếm lợi lộc …
– Nếu em không chê và thật lòng thì ngày mai tới đây theo anh đi bốc vác mà sống.

Từ đó Tiến theo Lai như bóng với hình. Tiến cũng chứng tỏ nó coi mạng sống anh Lai trên cả mạng sống nó. Còn Lai dấu kín việc thoạt đầu gặp Tiến hắn đã có cảm tình và tin tưởng khi thấy thằng nhỏ mang những nét từa tựa thằng Minh…

Chỗ nào có mật chỗ đó có ruồi. Dạo gần đây nơi anh em Lai làm ăn xuất hiện nhiều thanh niên nói rặc giọng ngoài Bắc. Họ ngang nhiên dành mối và đôi khi gây gổ với những người trong nhóm phần đông là lính VNCH nên chịu nhịn nhục vì miếng ăn. Họ biết hễ xảy ra chuyện gì họ cũng đều bị lép vế  thậm chí có thể bị đi tù nếu xảy ra ấu đã.

Lai thấy hết nhưng muốn dĩ hoà vi quý. Hắn khuyên anh em nên nhịn nhục  khiến bọn kia tưởng bở càng lấn tới, đòi đuổi hết dành độc quyền. Bọn này chừng tám chín mạng cầm đầu bởi một nhân vật vạm vỡ cạo đầu trọc và xăm mình đầy hai cánh tay. Chúng lớn lối thách thức và cấm bất cứ ai đến hành nghề bốc vác trừ băng của chúng. Mỗi buổi sáng chúng hung hăng nhét dao trước bụng đi đe doạ mọi người.

Lai im lặng chúng lấn tới đâu hắn nhường tới đó. Nhưng cùng lúc hắn sai Tiến và vài đứa nhỏ bí mật tìm kiếm chính xác nơi bọn này đóng băng và bao gồm bao nhiêu đứa. Lai cứ làm như sợ sệt không nói không rằng nhất là lời thách thức của tay cầm đầu tên là Tư Phường nghe đâu dân cảng Hải Phòng từng hành nghề đâm chém kiếm sống.

Buổi tối mấy đứa nhỏ về báo tin Tư Phường và đàn em vừa mới nhậu một chầu bí tỉ, đang nằm say mèm trong một khu vực phòng trọ. Lai, Tiến và bốn đứa khác lẳng lặng bí mật kéo đến. Lai không để những ông chú bác dính dáng tới lính dự phần mặc dù ai cũng nóng máu, hắn tính có gì hắn và mấy đứa nhỏ còn chịu được.

Bọn Tư Phường không phòng bị vì tin rằng với thành tích và dấu xăm chằng chịt, giới dân chơi miền Nam sẽ sợ hãi không dám kiếm chuyện, làm gì to gan tới kiếm tận sào huyệt. Nghe nói thằng Lai đen và đàn em nó chẳng có vết thẹo hay hình xăm nào trên mình làm thuốc. Toàn tụi thỏ đế!!!

Tiến và mấy đứa nhỏ nhẹ bước vào phòng. Nó vung cây quất vào mặt ba thằng nằm dưới đất nghe tiếng sóng mũi vỡ vụn. Tư Phường choàng tỉnh chưa kịp ngồi dậy bị quặt tay ra sau lưng trói lại. Hắn hoảng hốt van nài:
– Ối ông ơi xin tha cho con…

Lai – bịt kín đầu – để không lộ dấu vết – tát túi bụi vào mặt Tư Phường. Vẫn không nói tiếng nào hắn phang một gậy vào xương ống quyển đối phương vỡ nát. Bọn đàn em Tư Phường bị bịt miệng, trói tay chân không la được, chứng kiến sự việc trong kinh hoàng nước mắt nước mũi chảy ròng ròng….

Dân chơi Hải  Phòng hồn vía lên mây khóc rấm rít trong miệng mong sẽ giữ được tính mạng …

Sáng hôm sau bọn Lai đi làm như thường lệ, không thấy dấu vết của băng Tư Phường dân chơi cảng Hải Phòng ngoài Bắc …. bạn hàng tuy có hơi ngạc nhiên nhưng thấy thoải mái hơn với những gương mặt quen thuộc và giọng nói miền Nam thân thương. Riêng Lai và mấy thằng em tuyệt đối không nhắc nhở tới đêm hôm qua coi như chẳng có chuyện gì xảy ra.

Chương 6

Lai và Tiến đèo nhau chiếc Honda 67 vòng vòng Sài Gòn tránh cái nóng oi bức của mùa Hè. Tới khúc quanh bên ngoài khu công viên vắng vẻ  họ thấy có hai người dằng co nhau về một vật gì đó. Tiến lủi xe lại gần quan sát và nhận ra  một thanh niên đang dành giựt cái bóp với một cô gái. Trong bóng tối cô gái độ chừng hai mươi lăm hai mươi sáu cùng cỡ với người thanh niên. Anh đàn ông cố dằn cái bóp vung tay tát vào mặt cô gái bôm bốp. Mặc kệ, cô cứ nắm chặt bằng cả hai tay miệng chửi thề dữ dội.

Anh thanh niên đạp cô gái té sóng soài ra đất ôm chặt bóp định chạy; đúng vào lúc hai anh em trờ tới. Tiến lủi đầu xe chận đường trong khi Lai nhảy xuống chụp cổ tay:
– Trả lại cái bóp cho cô gái, người anh em.
– Đ má mầy biết tao là ai không mà nhảy vô xía chuyện…

Người thanh niên hùng hổ:
– Đ má dẹp mẹ tụi mầy đi

Tiến vung tay tát một cái trời giáng. Người thanh niên kêu ối ôm mặt bỏ cái bóp vừa chạy vừa chỉ tay hăm dọa:
– Tao chém tụi bây, tao chém…

Lai quay lại cô gái hỏi:
– Cô có sao không, cô bị cướp hả?

Máu ri rỉ hai bên mép cô gái trả lời:
– Nó cướp tiền làm ăn của em từ tối tới giờ. May mà có mấy anh lấy lại dùm……

Lai hiểu: cô gái là dân đứng đường và thanh niên kia chắc ma cô bảo vệ. Lai vẫy tay cho Tiến:
– Thôi vậy bây giờ anh em tôi đi nghe..
– Cám ơn hai anh. Tối nay về xóm chắc em chết đòn với nó …

Lai ngần ngại:
–  Cô nên kiếm chỗ tránh cho qua đêm nay

Cô gái lẩm bẩm:
– Biết về đâu anh ơi…

Lai xúc động:
– Chỗ tôi ở cũng gần, cô có muốn theo tôi về tạm trú đêm nay không?

Trong khi rảo bước Lai hỏi:
– Cô làm khu này lâu chưa? Hôm nay khá không?
– Dạ đáng lẽ cũng khá mà công an nó lùng dữ quá
– Cô tên gì, bao nhiêu rồi chắc trên hai mươi hả?
– Dạ em tên Ngọc Trinh… Em trên hai mươi lăm rồi…
– Không, tôi muốn hỏi tên thật… không phải tên làm ăn
– Tên thật của em thì nếu có dịp em sẽ cho anh biết còn em thường dùng tên này hàng ngày. Còn anh tên gì?
– Nhìn mái tóc tôi chắc cô biết rồi, tôi tên Lai…

Qua ánh sáng đèn đường, Ngọc Trinh nhìn già hơn với gương mặt bự phấn. Lai đoán ít nhất cô gái cũng bằng chị mình – nếu mình có chị –

Tiến chạy xe về nhà trước. Mười lăm phút sau Lai và Ngọc Trinh từ từ lửng thửng đến nơi. Căn nhà trọ bề dài chỉ đủ kê chiếc giường nằm và cái tủ nhỏ. Lai ở một mình, Tiến và mấy đứa kia rải rác chung quanh.

Lai chỉ chiếc giường cho Ngọc Trinh:
– Ngọc Trinh ngủ trên này đêm nay đi
– Còn anh?
– Tôi nằm đâu cũng được không sao
– Cám ơn anh… nhưng mà em sợ lắm, hay anh cứ lên đây nằm với em…

Lai miễn cưỡng:
– Cũng được

Đêm hôm đó đôi trai gái giang hồ ôm nhau ngủ giấc êm đềm không mộng mị.

Buổi sáng Lai dậy đã thấy Ngọc Trinh ngồi chải tóc. Gương mặt cô gái không son phấn trẻ trung hơn hồi tối gần với tuổi thật:
– Để em ở nhà lo cơm nước cho anh

Cô nói, tay vẫn tiếp tục chải tóc. Lai đến gần đứng sau lưng người con gái, móc túi ra ít tiền để trên bàn.
– Anh cám ơn em, giữ chút tiền này mà đi chợ Ngọc Trinh

Cô gái dẩy nẩy:
– Em có tiền đây mà…

Lai đi ra chỗ làm, Tiến ngạc nhiên nhìn Lai cười tủm tỉm:
– Anh Lai hôm nay coi bộ yêu đời quá hả

Mấy người chung quanh phá lên cười vì chắc Tiến đã kể chuyện hồi hôm. Lai cũng cười hạnh phúc nghĩ đến bữa cơm có người nấu riêng cho mình.

 – Em sẽ kể câu chuyện của em cho anh nghe vì em nghĩ anh muốn biết. Chẳng hạn như em tên gì bao nhiêu tuổi và vì sao phải kiếm sống bằng nghề này.

Tên thật của em tất nhiên không phải là Ngọc Trinh, em kiếm tên đẹp để khách muốn quay trở lại dễ dàng tìm kiếm. Em tên Nguyễn Thị Mỹ Hạnh, năm nay em gần hai mươi sáu tuổi, hai mươi bảy tuổi Ta như má em vẫn thường đếm tuổi cho em hồi còn nhỏ. Má thường nói em tuổi con Rắn và tuổi này sẽ gian truân trắc trở. Đúng y bon anh ơi …

Gia đình em hồi xưa ở vùng Bốn – giờ gọi là miền Tây Nam Bộ – Trước đây em cũng có ba má như mọi người nhưng bây giờ em mồ côi; ba má em không còn nữa sau năm 1975.

Hồi trước ba em là lính trên quận, còn má em ở nhà trồng trọt chăn nuôi. Năm Bảy Mươi Lăm em trổ mã con gái tóc dài da trắng mơn mởn. Em nhớ năm đó em đang học lớp Sáu ở trường Quận. Mỗi ngày em đạp xe khoảng ba cây số tới trường và cuộc đời gia đình em cứ êm đềm như thế…

Tới Ba Mươi Tháng Tư năm 1975 cách mạng việt cộng vào chiếm miền Nam, ba em chạy về nhà khóc, ở riết trong buồng ba ngày mới ra nét mặt buồn hiu. Rồi ba bắt đầu uống rượu càng uống ba càng lầm lì; uống say ba khóc má dìu vô mùng ngủ…

Em vẫn tiếp tục đi học nhưng không còn hứng thú gì nữa vì ngày nào cũng nghe thầy cô giáo trong bưng biền mới ra bắt phải lên án Mỹ Nguỵ. Lên án ba mình hoài em chán, tự ý nghỉ học phụ má. Má không cho em nghỉ còn ba tuy không nói nhưng có vẻ đồng tình. Trước đó em quen một anh lính nghe nói là Biệt Động Quân (em không biết, chỉ thấy ảnh chỉ hình con cọp trên tay áo và hãnh diện khoe ”Anh Biệt Động Quân em ơi”) em quen ảnh vì đơn vị của ảnh hành quân đóng ở nhà em.

Cách nhà em chừng mấy cây số vài nhà chung quanh có con trai, ba đứa cả thảy. Tụi nó lớn rồi mà không hiểu sao không đi lính. Tụi nó cứ lẩn quẩn gần nhà em tìm cách chọc ghẹo. Hồi anh Bình – anh lính BĐQ – đóng gần thì tụi nó không dám tới, đợi đơn vị rút quân rồi tụi nó dè bỉu nói xấu. Anh Bình có gởi thư cho em nhưng sau này không biết ảnh ở đâu còn hay đã mất…

Sau này mới biết ba thằng đó là du kích Việt cộng, thằng lớn nhất tên Nhơn khoảng hai mươi hai, thằng tên Tín và thằng nữa tên Huỳnh hai thằng sau trên dưới hai mươi.

Một hôm em đạp xe lên chợ mua thức ăn cho heo nhà mới đẻ, ngang qua khu miểu hoang cách đường lộ khoảng nửa cây số. Để em kể anh nghe khu miểu này:

– Hồi trước ở đây có ba bốn gia đình người tàu quây quần sinh sống bằng nghề trồng trọt. Họ tự dựng một khu miểu gồm ba gian. Gian chính lớn ở giữa hai gian nhỏ hơn nằm hai bên họ thờ ông Quan Công và khói hương nghi ngút. Sau này chiến sự nổ lớn họ bỏ đi để hoang phế…

Em đạp tới gần thì ba thằng bỗng đâu trồi ra chỉa súng buộc em phải dừng lại đứng yên. Cầm đầu là thằng Nhơn, ba đứa khiêng em như con heo vào khu miểu mặc cho em la hét giãy dụa. Thằng Nhơn lên đạn cây súng trừng mắt:
– Mày muốn chết hay muốn sống. Đụ mẹ thằng nguỵ Biệt Động Quân không có ở đây cứu mày đâu!!

Sức em làm sao chống nổi với ba đứa tụi nó… Rồi tụi nó  đè em ra…

Ba thằng thay phiên nhau hiếp cho tới khi em ngất xỉu. Tụi nó hành hạ em đến chiều tối rồi bỏ em lại một mình. Giữa khuya em tỉnh lại cố gắng vừa lê vừa bò về nhà Ba má vẫn còn thức đốt đuốc ngồi ngoài sân chờ, thấy em ba má chạy đến dìu em vào nhà, má vừa đi vừa khóc:
– Con có sao không con, …

Còn ba vẫn không nói tiếng nào y như người đã chết

Em phải nằm nhà dưỡng thương một thời gian. Ba má chỉ có mình em, má cứ van vái Trời Phật cho mọi chuyện được êm xuôi dù biết thủ phạm nhưng mình dân ”Nguỵ” ai bênh vực cho mình?

Còn ba cứ ngồi trầm ngâm và uống rượu nhiều hơn. Một hôm giữa khuya ba lén má và em lận dao lên xã – ba biết mấy thằng này đang làm công an xã.

Sáng hôm sau không thấy ba về. Xã lại cho người xuống báo tin nhà lên nhận xác ba về chôn cất. Thì ra ba kiếm tụi nó để đâm. Thằng Nhơn không đề phòng nên ba tới gần nó chém một nhát khiến bị hư con mắt mặt. Bọn còn lại xả súng bắn nát người ba chết tức khắc. Má vừa tai hoạ con vừa mất chồng lâm bệnh một thời gian cũng chết. Phần em sợ quá chôn má xong giữa đêm lén bỏ hết trốn khỏi nơi chôn nhao cắt rốn. Từ đó không bao giờ em trở về nữa.

Em đâu có ai quen trên Sài Gòn, thật sự là em leo đại lên xe rồi tới đâu thì tới. Thân cô thế cô lòng em rối bời không biết sẽ sinh sống ra sao. Em đánh bạo thấy bất cứ nhà nào có làm ăn buôn bán đều ghé vào xin việc. Người ở đây họ rất tốt nhưng chính họ cũng không lo nổi cho gia đình thì làm sao dám gánh thêm một miệng ăn? Có bà nhìn em thương hại:
– Buôn bán lúc này ế nhệ,  dì muốn lắm nhưng làm sao dám thuê thêm người cháu ơi …

Tối hôm đó bụng đói em đánh bạo nằm ngủ đại dưới mái hiên nhà người ta. Mệt quá em cũng thiếp đi một chút; ngủ dậy trời còn tối bưng em nhớ tới thân phận mình ôm mặt khóc. Cha mẹ không còn, tứ cố vô thân trong túi không tiền bạc làm sao đây?….

Ngày hôm sau đi ngang qua quán cơm bình dân em thấy có người bỏ cơm thừa em ngó trước ngó sau rồi lén dồn hết vào miệng. Chị chủ quán thấy tội nghiệp múc cho em một dĩa với đậu hũ kho. Chưa bao giờ em ăn cơm ngon đến thế…

Buổi tối em lang thang ngoài công viên tính kiếm góc nào ngủ thì có hai thanh niên đi xe gắn máy kè theo:
– Đi với tụi anh không em?

Em nghĩ mình chẳng còn gì để mất. Cái đáng giá nhất của người con gái đã bị cướp, mạng mình chưa chắc giữ được nay mai …
– Mấy anh có mấy người? Có xa đây không?
– Chỉ có hai đứa tụi anh thôi, cũng gần thôi, đừng lo tụi anh chi địa ngọt mà…

Em đi theo họ, lòng tự nhủ  cứ trân mình chịu;  ít nhất đêm nay có chỗ nghỉ chân và ngày mai đủ tiền mua phần cơm bình dân.

Em đâu có ngờ là ở nhà còn thêm ba đứa nữa đang chờ. Muốn từ chối cũng không kịp em điều đình:
– Thôi, cho tui xuống, mấy anh đông quá làm sao tui chịu nổi. Chẳng thà mấy anh nói thiệt rồi tui liệu sức ….

Họ nằn nì:
– Em chìu tụi anh đi, tụi anh trả thêm tiền …

Nhưng em nhất định không chịu và dọa kêu công an. Dọa vậy thôi chứ em biết công an đâu mà kêu…

Buổi tối hôm đó em trở lại công viên kiếm chỗ vắng chui vô ngủ. Em ngủ có một mắt, mắt kia phải thức đề phòng những ngày đầu tiên của em ở “Thành Phố Hồ Chí Minh” xảy ra như vậy.

Buổi tối hôm sau em đang lang thang thì lại có một thanh niên kè theo hỏi chuyện. Em thấy người cũng lịch sự nói năng đàng hoàng và có chút gì đó giống anh Bình nên em tình cảm đối đáp. Hắn mời em đi uống nước, mua cho em dĩa bột chiên. Mới mười bảy tuổi vẫn còn nét e dè mắc cở con gái nhưng đói quá em ăn uống thật nhanh. Sau đó hắn mời về nhà trọ của hắn và hai đứa ngủ với nhau đêm đó.

Những ngày sau hắn chăm sóc em cẩn thận: thức ăn, chỗ tắm rửa, nghỉ ngơi. Em ngạc nhiên tự nhủ sao có người tốt quá vậy? hay mình sắp đổi đời?

Em đổi đời thật anh ơi!!! Vì tới ngày thứ tám một lão trung niên đi xồng xộc vào phòng khóa cửa lại. Không nói không rằng lão vật em ra dùng sức hảm hiếp em. Em kêu la dãy dụa nhưng không ai can thiệp. Giờ em mới biết mình bị rơi vào tay bọn ma cô. Hắn bán em cho cha già dịch (lão này khóa cửa ngoài khiến em không trốn được). Hôm sau nó trở về dựng em dậy nói chuyện:
– Em đã thấy cách sống trên thành phố này. Bây giờ nếu chúng ta hợp tác chúng ta sẽ sống được. Tôi dắt mối cho em, tiền kiếm được tôi chỉ lấy bốn còn phần em sáu. Em còn trẻ nét mặt cũng dễ nhìn mình sẽ không thiếu khách.

Em cương quyết không chịu và dọa tới công an. Hắn vùng dậy nắm tóc em ghịch xuống tay tát chân lên gối vào bụng em cho tới khi em mềm như bún
– Đụ mẹ mày hăm tao hả? Tao cho mầy biết công an chưa tới đây thì mầy đã hồn lìa địa phủ nghe con.

Hắn đấm tát em liên tục chỉ chừa cái mặt. Em gặp phải dân chuyên nghiệp rồi …
Đó là những ngày hành nghề đầu tiên của em

Em cứ tự nhủ thầm: mình mặc kệ như khúc cây mục ai làm gì thì làm. Mới đầu đêm nào về chỗ trọ em cũng khóc, riết rồi không còn thì giờ đau khổ riêng tư gì nữa, cố gắng chìu khách họ sẽ cho tiền bo khi xong việc. Anh biết hôn không phụ nữ nào muốn chia sẻ thân thể mình với ai khác ngoại trừ người mình yêu. Tới bây giờ nghĩ lại em coi anh Bình như người yêu đầu đời con gái của mình. Hồi anh Bình đóng quân trong nhà tụi em rủ nhau chui vào những nơi vắng vẻ nói chuyện, em không biết ảnh chưa từng ăn ở với đàn bà hay ảnh muốn giữ gìn cho em nhưng ngoài nắm tay ôm chặt sờ mó chút xíu anh chỉ hôn lên má em. Anh Bình không hôn môi em bao giờ. Ảnh là lính mà, đâu có hiền khô như ông Phật được. Trước khi bị tụi thằng Nhơn hãm hại em vẫn còn là con gái xử nữ.

Thằng ma cô đầu tiên ít nhất nó còn chút lương tâm không cướp hết tiền em làm. Nó chia sòng phẳng như thoả thuận. Thỉnh thoảng nó mượn tiền em chơi số đề thường là nó thua, tất nhiên nó quịt không trả. Em đâu thể nói không với nó nếu không muốn bị ăn đòn.

Khách có thể mướn khách sạn đưa em ngủ nguyên đêm, hay có thể dù một phát ngay trong phòng trọ thằng ma cô. Những lúc đó nó ngủ lang thang ở đâu em không biết hôm sau trở về nó đưa cho em phần của em.

Bởi vì em kiếm nhiều hơn nó em phải chi trả tiền nhà điện nước, thỉnh thoảng nó góp một phần nhỏ. Còn ăn uống thì ai lo phần đó không ai bao ai….

Người đời ghét tụi em, đi ngang qua còn phun nước miếng. Họ chửi không còn chỗ chui mặt trốn y như tụi em bị bệnh truyền nhiễm. Mà tụi em làm gì nên tội đâu? phải bán thân thể mình cho người ta dày vò hành hạ chớ đâu phải người ta đem tiền dâng vào tay? Nhiều khách say mèm ói lên người tắm rửa kỹ mà mùi cứ bám cả tuần sau mới bớt. Có khách hung dữ vũ phu đánh đập tụi em như con vật, cầm được đồng tiền thì đau nhừ phải uống thuốc. Có người lại buộc mình phải làm chuyện không muốn, lúc đó mới thấy ma cô cần thiết vì họ sẽ can thiệp vào. Em còn trẻ, dễ nhìn nên còn chút tự do lựa chọn nhưng những chị lớn thì không, buộc phải chìu khách hết mình, hy vọng họ còn cho chút tiền bo. Tụi em thật sự đáng thương chứ đâu đáng bị ghét bỏ phải không anh?

Đi đêm rồi cũng có ngày gặp ma. Em vướng bệnh tật vài lần và những lúc như vậy tiền dành dụm phải bỏ ra mua thuốc. Nhiều người lờn thuốc không trị được rốt cuộc ôm đau đớn mà chết trong cô đơn không kèn không trống. Tụi em đi kiếm mấy ông chích dạo trước đây học ở trường đàng hoàng thời “Ngụy”, bây giờ đi cải tạo về đạp xe chích dạo trong xóm. Có một ông rất mát tay nghe nói trước đây là sĩ quan trợ y thường chữa trị cho tụi em giá rẻ. Không có ổng thì lúc bệnh hoạn tụi em chắc chết hết!!!

Mỗi lần khách chở đi nhà nghỉ phòng trọ tụi em rất sợ, không dám đem theo tiền bạc tư trang dễ bị cướp. Anh ngạc nhiên hả, thời buổi này cái gì cũng xảy ra được. Em còn sợ cướp xong nó giết mình luôn phi tang ai mà biết để cứu? Thằng ma cô đâu có ngồi trước cửa để canh an toàn cho mình. Nếu mình chết nó lại đi kiếm con khác thế vào có sao đâu!!

Khổ nhất là gặp công an đi ruồng. Lúc đó tụi em bung chạy như vịt đồng. Hú hồn hú vía nếu thoát còn xui thì bao nhiêu tiền kiếm được tiền bo trong túi nó lục lấy hết. Còn phải đóng tiền phạt, và nếu thằng công an làm việc với mình đòi hỏi thì mình phải chìu nó không tính tiền (đứa nào có chút nhan sắc cũng dính vụ này). Anh hỏi tại sao hả, tại vì mình không biết điều công an sẽ gởi mình đi trường Phục Hồi Nhân Phẩm!! nghe đạo đức nhưng đó là một hình thức tù không án mà bạn em có đứa trở về đều rùng mình khi kể lại.

Không phải là em kể khổ với anh nhưng hôm nay tự nhiên em muốn tâm sự, muốn trút hết những gì ấm ức đau đớn của đời mình. Mười năm trời nay em không thổ lộ với ai. Chuyện của em mà tâm sự với thằng dắt mối nó cười cho thúi đầu. Còn khách gặp mình nó cứ hùng hục cho nát đồng tiền bỏ ra, hơi đâu nghe tâm sự của một con điếm …

Mười năm bôn ba rời quê hương em chưa một lần mua vé xe về thăm mồ mả ba má. Em mắc cỡ lắm anh ơi. Không phải lỗi của em đã đưa tới tình cảnh ngày hôm nay. Em chắc ba má ở suối vàng hiểu cho em, nhưng em sợ tụi thằng Nhơn nó nhìn ra em thì em tới số…

Mỗi lần em nghĩ về quá khứ em lại nhắm mắt cố xua đuổi mọi thứ ra khỏi đầu óc. Thằng ma cô đầu tiên có lần về nhà thấy em đập đầu bình bình vào vách nó ôm em lại cười toe toét:
– Đụ má mầy lên cơn khùng hả em gái?

Tội nghiệp nó chạy đi mua cho ly cà phê sữa đá và cái bánh bao đầu ngỏ. Tối hôm đó nó cho em nghĩ, không phải nó thương gì em đâu mà tại cái trán sưng vù mất khách.

Ít nhất đó cũng là tay ma cô tương đối dễ chịu cho em. Sau này hắn bị công an bắt đi cải tạo rồi đạp phải mìn còn sót lại trong chiến tranh chết banh xác.

Có thời gian em làm ăn một mình. Thời gian đó em bị bầm dập nhất: bị khách qụit tiền, bị đánh, bị đuổi khỏi phòng trọ, bị công an bắt phải chìu cả ngày trời một đám bốn thằng trong nhà ngủ. Thiệt là “khổ tận” mà không thấy ”cam lai“

Có lúc em theo bạn bè chạy tuốt ra ngoài Bắc hành nghề, rồi bôn ba qua tận Cam Pu Chia. Rốt cuộc em lại trở về Sài Gòn và em có tay ma cô thứ hai em lượm được trong chuyến qua Miên. Anh này người Miên lai cục mịch nhưng không vũ phu đánh em. Khách nhìn tướng tá bậm trợn xăm bùa Miên tùm lum nên cũng rét không dám tầm bậy.

Thời gian này em đỡ lắm, mặt mày hồng hào có da có thịt. Anh này tên là Thạch Sơn bảo vệ em tối đa. Rồi có lần kéo em đi ăn uống ảnh thú thật ảnh yêu em muốn cưới em làm vợ. Ảnh muốn em chấm dứt nghề này theo ảnh về Miên sống. Tình thật thì em rất cảm động vì mình như vầy mà có người muốn cưới, nhưng nghĩ tới bỏ hết về nơi đất lạ quê người em sợ. Bây giờ không sao nhưng khi cơm không lành canh không ngọt ảnh nổi điên chỉ bóp cổ là mình chết ngắt (em từng thấy ảnh đánh khách mềm nhũn như cái mền vì người khách tát em) nên em từ chối. Cuối cùng anh ấy bỏ em mà đi không một lời từ biệt

Sau đó em về ở với chị Bông. Chị chừng bốn mươi tuổi, trước cũng lang thang làm gái như tụi em; nay lớn tuổi về hưu sắm cái xe bán thuốc lá lẻ khoai lang ổi cóc ngoài đường. Chị Bông biết lo xa dành dụm được ít tiền, sau này chị mua một chái nhà nhỏ xíu trong hẻm, ngăn thành phòng cho mướn. Chị không hút thuốc, thấy em cũng không hút thuốc và ăn ở sạch sẽ nên cho em thuê với giá tượng trưng.

Chị thương hoàn cảnh của em, coi như em gái. Biết điều gì chị chỉ bảo cho em hết. Mấy lần vắng khách em ngồi nói chuyện với chị bên chiếc xe thuốc lá. Chị kể em nghe những tủi nhục trong nghề như khi vắng khách mà túi trống, đói thắt ruột vẫn lang thang ngoài đường. Chị hay nhắc nhở em nên chuẩn bị cho tương lai và đừng nghĩ đây đã là cuối đường không còn lối thoát. Những lần như vậy chị chỉ vào ngực tự hào: Ai ngờ cuối cùng chị cũng có một mái nhà của mình.

Em hỏi chị sao không lo chuyện chồng con? chị nói với em cở chị coi như xong rồi nhưng em còn rất trẻ, phải lo tính xa chớ mình không sống với nghề này tới hết đời. Chị khuyên cố gắng tránh thai và chỉ cho em những cách thường xử dụng. Chị chép miệng ”Có con không nuôi dạy tử tế, cuối cùng để nó theo bước chân mình thì tội lắm em ơi”

Em còn nhỏ nên khờ khạo lắm anh ơi. Ngày em nghe lời dụ dỗ ngọt ngào của thằng ma cô thứ ba bỏ nhà chị Bông đi theo nó, em tưởng mình đã tìm thấy và chọn được người chồng hạnh phúc xây dưng một gia đình như lời khuyên của chị Bông, người chị em luôn luôn kính mến như chị ruột của mình. Cái tội của em là đã không chia sẻ với chị để chị nhìn người và cho nhận xét. Ra đi rồi mới hỡi ôi tránh vỏ dưa lại gặp ngay vỏ dừa định mệnh.

Thằng này tệ nhất trong tất cả những thằng ma cô trên thế giới. Nó lại còn chơi ma túy, dụ dỗ em nhập bọn để khi ghiền em sẽ mua bao nó, nhưng em đâu có ngu. Đó là điều em tự an ủi mình đã không làm vong hồn ba má em buồn. Mang nhục cho cha mẹ với cái nghề này còn mang bệnh ghiền thì cũng nên đâm đầu vào xe mười bánh.

Mỗi lần cơn ghiền nổi lên mà không đủ tiền mua thuốc về chích, nó đánh em như con chó. Nó lên gối, đấm đá tát tay không còn chừa kiểu nào. Nó là cái thằng giựt tiền mà anh ra tay bênh vực em tối hôm nọ…

Giờ thì anh đã nghe hết về cuộc đời em. Em cũng cám ơn anh kiên nhẫn nghe; và em cũng sẽ rời khỏi nơi này ngay lập tức nếu anh ra lệnh. Dù thế nào em rất biết ơn những tháng ngày anh đã cưu mang em. Đó là thời gian hạnh phúc nhất em được hưởng mà nhờ đó em tin rằng trên đời vẫn còn những người tốt và em vẫn chưa tới nước đường cùng như lời chị Bông nói…..

Đám cưới đôi trai gái giang hồ tổ chức tuy nhỏ nhưng ấm cúng. Mấy bạn hàng hùn hạp với nhau tặng hai vợ chồng chút tiền làm vốn. Hôm đó ai cũng vui, mấy chú bác cựu quân nhân cụng ly với thằng con “Đế Quốc Mỹ” dễ thương, và tình nguyện làm đại diện nhà trai. Bên Mỹ Hạnh mời được chị Bông đại diện nhà gái. Lai cũng mời Ma Sơ Tê Rê sa nhưng Sơ không thể mặc dân sự mà mặc áo dòng thì đâm ra không phù hợp lạc lõng… Cuối cùng Ma Sơ gởi quà tặng mừng cặp đèn cầy trắng và chuỗi Mân Côi, thêm chút tiền Sơ dành dụm được.

Thiệp chúc mừng của Ma Sơ viết:
– Thân chúc hai em Thanh Lai – Mỹ Hạnh sống tràn đầy Hồng Ân Thiên Chúa và Mẹ Maria. Tái Bút: nhớ những lời Sơ dặn nghe Lai….

Lai hiểu ngay Sơ muốn nhắn nhủ điều gì: SỐNG CHO TỐT, Lai nhẹ lắc đầu tự nhủ: Em muốn lắm Sơ ơi mà đâu phải lúc nào đời cũng chìu theo ý mình… Bây giờ đã có vợ đáng ra nên vui cuộc sống mới nhưng tâm hồn hắn nặng trĩu chưa yên vì không quên được câu chuyện Mỹ Hạnh kể …..

Chương 7

Đại úy Ba Nhơn tên thật là Nguyễn Văn Nhơn sĩ quan công an hình sự của huyện. Dân vùng biển Kiên Giang rất sợ Ba Nhơn vì nghe đồn đại úy là tay chân ruột của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chuyên lo việc bán bãi cho dân Tàu vượt biên. Thành tích Ba Nhơn dân Tàu đều biết kể cả Tàu Chợ Lớn xuống mua ghe đi chính thức. Có những ghe dân vượt biên chính thức muốn xuống phải nộp riêng cho Ba Nhơn mỗi người vài chỉ ”để anh em công an canh gác uống cà phê”. Ba Nhơn rất khôn ngoan không bao giờ trực tiếp vòi tiền nhưng nhắn qua đầu nậu: tới giờ xuống ghe không ai muốn rắc rối bị lôi xuống. Nhiều tin đồn có ghe Ba Nhơn đòi mỗi người vài chỉ nhưng cũng có ghe nhóm công an gác bãi dưới quyền Ba Nhơn đòi vài cây; sau này người ta tìm ra lý do là những chiếc ọp ẹp không chắc chắn; ra ngoài biển chín mươi phần trăm bị gió bão đánh chìm. Sở dĩ họ bị đòi tiền mãi lộ cao để lở ra tới biển bể nát rớt xuống đáy uổng!!!

Trực thuộc phòng hình sự nên Ba Nhơn như ông trời con muốn làm gì thì làm; lại còn – nghe nói – được thủ tướng chống lưng khiến Ba Nhơn hét ra lửa mửa ra khói ai cũng khiếp vía. Chưa vợ con gia đình nên hết giờ ở sở là Ba Nhơn đi các quán bia ôm cao cấp giải trí. Nhiều hôm say quắc cần câu nhà hàng có xe riêng chở đến khách sạn hạng sang địa phương ngủ lại dưới sự chăm nom săn sóc của mấy em tuyển từ  Sài Gòn xuống. Giữa đêm Ba Nhơn thức dậy về nghỉ ở biệt thự riêng xây lên nhờ vào quyền uy và tiền bạc hốt thời gian bán bãi vượt biên. Ăn bẩn và giết người nhiều như vậy nhưng Ba Nhơn chẳng quan tâm sợ hãi vì hắn tự tin  ma quỷ nghe tới tên hắn là chạy mất dép. Còn thân nhân những người sống thấy bóng thủ tướng sau lưng Ba Nhơn bèn chọn đường dĩ hoà vi qúy.

Cho nên Ba Nhơn thực sự rất hài lòng với cuộc sống của một sĩ quan công an hình sự. Hồi trước hắn đi đâu thường mang cây K54 theo đề phòng trả thù nhưng sau hắn thấy không cần thiết nữa; ai dám đụng đến đại úy công an hình sự Lê văn Nhơn? Thằng nào ăn gan trời mới dám chơi sĩ quan công an hình sự cách mạng? Muốn sống hay chết?

Bây giờ Nhơn quên hết những chuyện xảy ra thời còn là du kích xã. Nhắc lại chỉ thấy mắc cở vì thời đó chẳng có quyền hành cơ ngơi ngoài việc hù dọa  dân địa phương. Thỉnh thoảng hắn nằm mơ chuyện hắn và hai thằng bạn du kích đè đứa con gái gia đình lính Ngụy. Khi tỉnh lại cũng có chút hối hận không biết đứa con gái còn sống hay đã chết sau số phận hẩm hiu của cha mẹ? Cảm giác tội lỗi hiện ra đúng ba giây đồng hồ vì dù sao đó là một gia đình Ngụy tay sai cho Đế Quốc Mỹ.

Ba Nhơn vẫn liên hệ với thằng Tín – Hồ Văn Tín – thằng bạn du kích xã hồi xưa nay là giám đốc một cửa hàng buôn bán vàng bạc đá qúy nổi tiếng địa phương. Bao nhiêu vòng vàng kim cương hột xoàn kiếm được nhờ lường gạt cướp bóc bán bãi dân Tàu vượt biên Ba Nhơn chuyển giao hết cho Tín tiêu thụ. Nhờ đó Tín mới bò được tới địa vị như ngày hôm nay. Tín luôn hợp tác chặt chẽ với Ba Nhơn và thỉnh thoảng biếu xén sừng tê giác, ngà voi, nhung nai cùng dược liệu qúy hiếm tăng cường sinh lực để Ba Nhơn bồi bổ hầu chu toàn phục vụ những em gái thơm như múi mít được giám đốc Hồ Văn Tín tự tay tuyển chọn từ Sài Gòn. Cho nên hể nghe điện của Hồ Văn Tín là đại úy công an hình sự Lê Văn Nhơn đều bỏ hết chuyện mình đang làm đến ngay. Nhơn dấu nhẹm việc hắn biếu thủ tướng bài thuốc cường dương do Tín tặng khiến thủ tướng gọi điện riêng cám ơn. Hắn đâu có ngu vẽ đường cho hươu chạy nếu Tín gởi trực tiếp thủ tướng không qua Nhơn thì hư bột hư đường hết.

Nhờ là giám đốc cửa hàng vàng bạc đá qúy Tín sắm cho riêng mình chiếc xe hơi hạng sang lấy le. Nhơn dư sức mua nhưng hắn thấy không cần thiết và cũng không muốn khoe khoang sự giàu có nứt đố đổ vách của mình lở ”ở trên” thấy được.

Tội nghiệp thằng Huỳnh – thằng thứ ba trong nhóm – . Sau vụ hiếp đứa con gái gia đình lính Ngụy nó trở về nhà và bỗng dưng nổi cơn điên. Nó uống rượu say đấm ngực lảm nhảm ngoài đường nhưng nó không phun ra sự việc lúc lên cơn nên câu chuyện vẫn còn trong bí mật (Mà có xui xẻo bể chuyện thì ai làm gì nhau khi thủ phạm là nhân viên du kích vũ trang xã phục vụ nhân dân?)

Huỳnh cứ thế lang thang ngoài đường cù bơ cù bất lảm nhảm sáng đêm. Gia đình đưa đi thầy chữa trị không khỏi riết rồi mặc kệ nó, thấy thì đưa về nhà cho ăn uống tắm rửa xiềng lại, vậy mà nó cũng bứt đi. Lúc nó băng từ bên này đường sang bên kia trong khi xe nườm nượp khiến bị đâm té sấp  đập đầu chết.  Không ai biết chuyện gì đã xảy ra cho gia đình chú lính quận chết hai vợ chồng ngày trước và đứa con gái mơn mởn dậy thì đột nhiên mất biệt.

Ngôi mộ hai vợ chồng xiêu vẹo theo thời gian không ai chăm sóc cũng không có lấy nén hương ấm cúng trong những ngày giỗ chạp. Người nhiều chuyện  cho rằng cô gái theo dòng thời gian chắc cũng chết bờ bụi đâu đó; chớ còn sống lẽ nào không về bên cha mẹ đốt nắm nhang ấm lòng?

Quê hương vẫn như thế không có gì thay đổi, khu nhà hai vợ chồng hồi xưa giờ hoang vắng ngã nghiêng quá cơ hội tu sửa; mà tu sửa làm gì khi không ai muốn mua lại mảnh đất người ta truyền tụng có ma: ban đêm thấy hai bóng đàn ông đàn bà tuột lên tuột xuống ngoài cây dừa phía trước nhà. Đồn là đồn vậy thôi chứ chẳng ai chứng minh chính mình nhìn thấy. Có người còn tô điểm ngoài hai vợ chồng ma còn thêm  cô con gái. Tuy nhiên theo truyền tai thì khu hoang hoá này đang nằm đúng tầm ngắm của một đại biểu hội đồng nhân dân tỉnh nhờ vào thế đất dựa bờ sông rất hợp phong thuỷ của nó.

Đặc biệt khu miểu hoang còn đó, người xưa xây cất kiểu gì và vật liệu gì mà đến nay nó vẫn còn chắc chắn. Có điều không ai quét dọn hay đốt nhang cho ông Quan Công ngự phía trong được ấm cúng, hoặc thời gian hoang lạnh quá ổng cũng buồn tình trở về cố quốc. Hay may mắn hơn biết đâu ổng đã theo con cháu từ khắp miền Nam đổ xô về, lên tàu vượt biên chính thức và đang hạnh phúc ấm cúng ở đâu đó bên ngoài nước CHXHCNVN?

Ngôi miểu trông âm u hơn ngày xưa lúc cộng đồng người Hoa chung quanh còn đông. Ngày tư ngày tết các vị thần thánh trong miểu tha hồ ăn heo quay, nhang đốt muốn cháy nhà, người viếng muốn xỉu vì không thở nổi. Nhờ cách mạng văn minh hơn bớt dị đoan mê tín nhưng cũng khiến thần thánh đói và mất nhà mất cửa…..

Hai cán bộ nhà nước Ba Nhơn tức đại úy Lê Văn Nhơn và ông giám đốc cửa hàng vàng bạc đá qúy Hồ Văn Tín không dư thời giờ về thăm mảnh đất nơi mình khôn lớn rồi theo chân kháng chiến qua tiếng loa tuyên truyền của  mấy ông du kích. Ông nào bị ruồng bố mất xác vì thám sát tỉnh (PRU) hay các đơn vị của Ngụy hồi xưa thì thôi, còn ông nào sống sót giờ lộ mặt nằm vùng đều ngồi trong các văn phòng từ cấp xả trở lên chuyên giải quyết giấy tờ bằng đóng dấu có sẵn và ký chữ X bên cạnh. Làm việc hay hội họp mấy Chú Năm, Chú Bảy không quên bộ đồ bà ba lụa lèo (rất mát trong mùa nắng) bịch thuốc rê và cái khăn rằn quấn cổ. Đặc biệt bước ngang khu miếu cũ hai cán bộ thấy lạnh gáy, nhớ câu chuyện xảy ra hồi đó và hình ảnh thằng Huỳnh điên vì ma nhập, cuối cùng bị xe tải ủi chết…

Dạo này Sài Gòn rộn lên tin đồn cho con lai đi Mỹ, những bạn hàng ở chợ đổ dồn mắt vào Lai:
– Mầy nghe gì chưa con? Nhà nước đang cứu xét cho tụi bây về quê hương của cha mầy đó. Ráng nhín thì giờ lên Sở Ngoại Vụ thử coi!! ghé ngang Tổng Lãnh Sự Mỹ nữa cho đủ bộ…

Chuyện có thật nhưng không dễ dàng vì phải có hình ảnh giấy tờ chứng minh mà Lai thì ngoài Khai Sanh chẳng còn bằng chứng. May thay năm sanh trùng hợp với thời gian quân nhân Mỹ hiện diện đông nhất ở Việt Nam.

Nhiều gia đình có tiền nườm nượp tìm đến gặp thằng ”con Đế Quốc Mỹ” làm nghề bốc vác, điều đình bảo trợ mọi mặt miễn sao hắn ghép gia đình họ vào chung hồ sơ. Ít nhất cũng ba gia đình lái xe hơi tới tận khu trọ của Lai!!.

Mỹ Hạnh không ý kiến nhưng Lai thì dứt khoát từ chối!! hắn không thể dối gian. Chính quyền Mỹ nhìn nhận và cho phép hắn trở về quê cha là quá đủ, hắn không muốn lợi dụng làm chuyện phi pháp. Thái độ đó không cản được mong muốn đi Mỹ của người có tiền nên họ cứ kéo đến…

Hồ sơ chỉ gồm hai vợ chồng. Lai muốn thêm tên thằng Tiến Cò nhưng nó cười ruồi lắc đầu từ chối:
– Em chỉ biết “hao a rơ du” và “phắc du” thôi, đi Mỹ sống sao nổi

Còn Ba Huy, cựu lính Lôi Hổ chửi thề ỏm tỏi:
– Mầy thấy tao đi nhảy toán mà sau 75 có ai ngó ngàng gì tới không? giờ tao qua bển làm cái con c. gì?

Cuối cùng mọi sự cũng êm xuôi sau bao nhiêu khó khăn, phỏng vấn, giờ hồ sơ trót lọt – phần lớn nhờ vào làn da và mái tóc –  gia đình ”con Đế Quốc Mỹ” chờ ngày gọi lên đường

Lai ghi danh học lái xe viện cớ sẽ dễ dàng hơn trong cuộc sống mới, tuy  thành thạo rồi nhưng chưa bao giờ nghĩ chuyện sắm xe hơi.

Lai cùng với Tiến mua vé xe đò trở về quê hương Mỹ Hạnh và xin hốt cốt cha mẹ. Tất cả những việc đó hắn không cho Mỹ Hạnh biết kể cả chuyện gởi vào chùa nghe kinh. Lai về Sài Gòn trước nhưng căn dặn Tiến ở lại tìm hiểu cặn kẽ về ba cựu du kích xã ở địa phương này. Lai dặn dò Tiến cẩn thận, khôn khéo không tạo bất cứ nghi ngờ, nhấn mạnh ở lại bao lâu cũng được nhưng phải tìm cho ra thói quen di chuyển ăn uống chỗ ở… tính luôn giờ giấc sinh hoạt hàng ngày, địa điểm ăn chơi ngủ nghỉ; xong việc mới về.

Phần kết

Giấy tờ xuất cảnh đã nhận được; khoảng một tháng nữa hai vợ chồng sẽ rời quê hương sang định cư xứ sở mới. Tất cả chi tiết Lai muốn tìm hiểu nay thuộc lòng cặn kẽ. Lai biết Huỳnh – một trong ba du kích – đã chết chỉ còn Hồ Văn Tín và Lê Văn Nhơn. Và Lai cũng biết rõ họ cư ngụ tại đâu kể cả nghề nghiệp, tình trạng vợ con mỗi người

Chẳng hạn như Hồ Văn Tín ông chủ nổi tiếng cửa hàng buôn bán vàng bạc đá qúy kiếm lời tiền tỷ. Không giống Lê Văn Nhơn, Tín có vợ nhưng không con dù tốn vàng hàng lượng săn đón mua những dược liệu qúy hiếm bồi bổ dương khí từ Hồng Kông. Vợ Tín tuy vậy vẫn trơ trơ không thai nghén gì. Tín đành phải tìm chỗ xả ẩn ức ngoài mấy quán bia ôm cao cấp. Miễn bao nhiêu tiền bạc kiếm được đem về giao nộp đầy đủ thì Tín vẫn  giữ được tự do. Vợ Tín gia nhập nhóm phu nhân của các quan cách mạng cao cấp thường mua vé sex tour qua Thái Lan vài ngày mới về; cho nên nước sông chẳng bao giờ chạm tới nước giếng.

Vợ Tín bị tay khoèo, hai chân vòng kiềng nhan sắc dưới trung bình nhưng bù lại là con gái một quan thuộc trung ương. Tín chịu nghe lời dụ dỗ ngon ngọt cứ nhắm mắt ưng đại khiến bây giờ Tín trở thành tay trùm khét tiếng trong khu vực kinh doanh kiếm tiền bụ bẫm.

Để tránh việc thực hành bổn phận người chồng Tín nhắm mắt trước những chuyến tham quan Thái Lan của vợ khiến cho hai bên  đều vui vẻ: vợ tìm vui nước ngoài thì Tín lại tha hồ đi Ka Ra Ô kê hay bia ôm  đầy đủ những trò chơi khiến nước ngoài cũng phải ganh tỵ.

Ở đây ăn chơi tuy không bằng Sài Gòn nhưng so với chung quanh cũng thuộc hạng nhất nhì. Cuối tuần Tín thường tới giàn karaoke hiện đại của chị Hai Bích ăn nhậu ca hát. Hát lấy hứng thôi quan trọng là bầy em gái mơn mởn xinh như tài tử quay quần chung quanh mớm thức ăn. Cứ chơi tới bến mệt thì ngủ lại căn phòng sang trọng chạy máy lạnh liên tục. Về hay không cũng chẳng phiền phức gì với vợ.

Thỉnh thoảng Tín cũng gọi Nhơn nhập bọn. Nghe có ông Nhơn tới chị Hai Bích lại càng thúc hối mấy em út phục vụ hết mình tuy nhìn Nhơn là ớn  với gương mặt chột một mắt kèm cái sẹo dài trên má. Nhơn chi đẹp nhưng hay yêu cầu mấy em phải chìu hắn những đòi hỏi rất bệnh hoạn.

Mười ngày nữa vợ chồng Lai lên đường. Ngày hôm qua Lai bí mật mua vé xe đò trở về quê, nói dối vợ nghĩ một tuần đi thăm anh em quen trước đây để từ giả. Hắn thuê một chỗ trọ ngoài bến xe – chuyện này thì hắn quá rành. Hể ra ngoài Lai luôn đội nón che dấu kỹ mái tóc  và mặc áo dài tay phủ ngoài. Hắn tìm đến quán karaoke chị Hai Bích xem xét cẩn thận. Ngày thường không đông nhưng cuối tuần khách khứa nườm nượp. Lai cố tình đến tối thứ Bẩy để xác định thông tin Tiến cung cấp: giám đốc Tín sẽ đến khoảng 5 giờ chiều và sẽ rời quán chừng chín giờ rưỡi đêm.

Hôm nay mọi chuyện xảy ra như kế hoạch, Lai giả dạng đeo quày ngang cổ bán thuốc lá, kẹo cao su. Lề đường chỉ còn xe của giám đốc Tín và hai chiếc khác đậu xa xa không tài xế đèn đuốc tắt ngúm. Lai nép vào một cây to bên đường chờ đợi…

Chín giờ bốn mươi lăm bóng dáng mập mạp bụng phệ của Tín xuất hiện, có vẻ vẫn còn tỉnh táo. Tín tới cửa mở khoá. Một tiếng nói sắc lạnh:
– Đứng yên!! đưa chìa khoá xe đây

Tín giật mình lúng túng nhận ra cảm giác lạnh của đầu nòng súng kề vào màng tang của mình. Ăn cướp rồi, không sao mình sẽ cho Ba Nhơn biết …

Tên cướp giật khoá xe từ tay Tín ra lệnh:
– Lên xe, không làm bất cứ tiếng động nào…

Tín quay lại nhìn thấy khẩu K54 đang lăm lăm chĩa vào đầu. Tên cướp sang phía bên kia mở cửa ngồi và quăng khóa xe cho Tín ra lệnh :
– Mở máy lái đi…
– Nếu anh cần tiền tôi có một số trong cạt táp…
– Lái đi!!

Tín hoang mang sợ hãi không biết tên cướp là ai muốn gì, liệu hắn giết mình không…
– Xin anh tha cho tôi còn vàng vòng hột xoàn ở nhà tôi sẽ giao hết cho anh miễn anh tha mạng
– Lái!!!

Chiếc xe chạy khoảng gần hai cây số đến một khúc rất tối tên cướp ra lệnh:
– Dừng lại, lủi vào khoảng trống trước mặt

Tín làm theo lệnh, đầu óc rối bời hoang mang. Hắn không biết tên cướp là ai bao nhiêu tuổi vì cả phần đầu được trùm kín dưới cái khăn rằn không để hở bất cứ khoảng nào, hắn lại mang bao tay che mất màu da. Tên cướp giựt chìa khoá khỏi ổ đi qua chỗ tài xế ra lệnh:
– Bước xuống!!

Tín đặt chân nhổm dậy. Một báng súng giáng vào ót làm Tín rụng như cây chuối bị đốn. Tên cướp mở cốp xe xốc Tín lên vai ném gọn vào. Hắn trói quặt tay nạn nhân phía sau nhét giẻ vào miệng và dùng băng keo dán kín. Kiểm tra một lần nữa hắn đóng bửng lại. Giờ  hắn sẽ lái chiếc xe Toyota hạng sang đến mục tiêu thứ hai.

Ba Nhơn dự tính trở về nhà thay đồ dân sự vì đi chơi ăn nhậu mà mặc đồng phục không thoải mái. Chút nữa xong xuôi sẽ gọi điện thoại cho giám đốc Tín rủ đi karaoke. Cũng hai tuần rồi hai người chưa gặp nhau phần vì Ba Nhơn không muốn gặp cái mặt vừa xấu vừa vô duyên của vợ ông giám đốc. Ghé nhà lấy chai rượu Tây mấy ngàn đô theo để đêm nay hai thằng quắc cần câu với nhau. Ba Nhơn tăng tốc chiếc mô tô phân khối lớn về hướng biệt phủ…

Lai tới trước cổng nhìn trước nhìn sau không có gì lạ bèn bấm nút mở cổng trước. Chuyện này cũng có tuồng tích: thỉnh thoảng kéo gái về vừa coi phim sex vừa uống rượu hay muốn trốn vợ đem em cưng hú hí Tín thường mượn biệt phủ của Ba Nhơn. Riết rồi Ba Nhơn đánh luôn một xâu riêng cho Tín tuỳ nghi xử dụng.

Lai lái vào đậu trước nhà chờ đợi, giờ này theo báo cáo của Tiến: Cò Ba Nhơn đang trên đường về để tắm rửa một cái mới được; Lai bước ra xe nấp vào chỗ tối …

Ba Nhơn ngạc nhiên khi thấy xe của Tín trong khuôn viên nhà. Cầu được ước thấy tính gọi cho hắn ai dè hắn đã ở đây. Trong xe tối thui, hay cha nội dẫn em lên phòng rồi, sao nóng dữ vậy ông nội? Hắn tò mò  nhìn soi qua kính xe …

Một cái bốp vang lên, báng súng K54 đập mạnh vào ót khiến Ba Nhơn té soài ra đất. Lai mở cốp vất Ba Nhơn vào nằm ngang Tín – vẫn còn đang mê man vì cú đánh -….

Lai bịt miệng trói tay chân chắc chắn rằng nạn nhân không thể tự mình hay nhờ người khác cởi dùm. Lai cũng không muốn họ bị chết ngạt. Lai trở lại đề máy xe trực chỉ hướng khu miểu hoang nơi xảy ra vụ hiếp dâm tập thể một cô gái ngây thơ hơn chục năm về trước.

Lai lái xe tới trước khu miếu; trên đường thỉnh thoảng hắn kiểm tra vì sợ rằng cú đánh quá mạnh y như hồi Hai Hùng có thể khiến nạn nhân tử vong. Hắn tắt đèn tắt máy đưa mọi thứ chìm trở lại vào bóng tối. Hắn mở cốp  vác hai thân hình phì nộn mở màng vào bên trong đặt ngồi dựa vách. Hắn đốt ngọn đèn cầy đủ sáng thấy dáng người để còng và cây K54 trước mặt. (Quyết định giữ lại hai thứ này quả nhiên hữu dụng)

Tín tỉnh lại đầu tiên sau xô nước tạt vào mặt van xin rối rít:
– Anh ơi tha cho em, em không biết em gây tội lỗi gì với anh, xin anh tha cho em làm phước….

Ba nhơn cũng ú ớ:
– Mầy là ai? Đụ mẹ mầy biết tao không?

Im Lặng. Ba Nhơn chửi tiếp:
– Khôn hồn đầu thú đi rồi tao tìm cách khoan hồng cho. Mầy chạy đâu cho thoát chính quyền cách mạng?

Kệ, cứ để chúng nó nói, Lai nghiến răng không trả lời, tránh  bất cứ chi tiết nào có thể làm lộ tông tích kể cả giọng nói

Lai lột trần truồng hai thân hình phì nộn hậu quả của ăn chơi phè phỡn. Cả Tín, Nhơn đều sở hữu cái bụng vượt ngực tròn trịa căng da trắng hếu. Hắn còng tay hai nạn nhân vào thanh sắt ngang trên vách dành móc những lư hương. Hắn muốn phỉ nhổ vào hai gương mặt bóng mỡ nhễ nhại mồ hôi. Cái nọng dưới cằm run run nhún nhẩy theo từng tiếng khóc. Bọn hét ra lửa mửa ra khói tới lúc bị đe doạ tính mạng thì èo uột như con mèo ướt.

Tới lúc này mọi sự diễn tiến theo đúng kế hoạch dự trù và tốt đẹp ngoài sức tưởng tượng.

Lai muốn làm tất cả chuyện một mình. Tiến ngờ ngợ gì đó nên cứ tò tò theo Lai và khẩn khoản tình nguyện chia sẻ. Tiến coi Lai là thần tượng sẵn sàng thi hành mọi mệnh lệnh Lai tuyên bố. Tiến nói:
– Anh Lai, nếu anh cần em vào bất cứ việc gì anh cứ cho em biết. Em theo anh lâu nay hắn anh hiểu em, dù sao em chỉ một thân một mình; còn anh thì phải lo cho gia đình và chị Mỹ Hạnh …

Nhưng Lai nghĩ khác, chuyện hắn làm không liên quan dính dáng gì tới Tiến không thể tự nhiên buộc Tiến phải ghé vai gánh lấy một phần ….

Nếu trục trặc đổ bể Lai không tin Tiến sẽ chịu nổi những gì hắn đã trải qua, thậm chí hắn có thể mất mạng vì đụng tới cán bộ công an cao cấp. Hắn dặn dò cẩn thận Tiến chăm sóc cho Mỹ Hạnh nếu hắn không trở về.

Đột nhiên Lai say sưa với ý nghĩ thọc một con dao nhọn hoắc vào hai cái bụng đầy mỡ và nhìn máu òng ọc chảy ra từ vết thương. Hừng hực hai bên thái dương, Lai cắn răng ghìm lại ước muốn giết người. Lai muốn trả thù cho anh Trí, cho cha Giu Se, cho thằng Minh và nhất là cho gia đình Mỹ Hạnh người con gái trả nợ đời bằng chính thân xác mình, từ đứa bé ngây thơ chỉ biết gia đình cha mẹ học hành; giờ bôn ba suốt chiều dài đất nước để bọn đàn ông dày vò hành hạ.

Lai cũng muốn trả thù cho tất cả những dân đang sống trong nước mắt trên đất nước VNCH.

Lai nhắm mắt lại. Gương mặt rõ mồn một với giọng cười đôn hậu của cha Giu Se hiện ra trong đầu Lai. Cha lắc đầu nhè nhẹ. Rồi gương mặt Ma Sơ Tê Rê Sa cùng câu nói tiêu biểu ”Sống cho tốt nha con” Rồi anh Trí, cả thằng nhóc Minh …

Lai thấy giết người dễ quá, nhưng không biết tại sao hắn không làm được. Hắn lửng thửng trở ra mặc kệ hai tù nhân miệng bịt băng kín, tay chân trói không cách nào tự cởi (nếu phần chưa tận sẽ có người tìm thấy và giải thoát, tuy nhiên không có chứng cớ nào để truy tố thủ phạm). Hắn rồ xe chạy về bờ sông gài số băng xuống. Hắn ném phi tang luôn cái còng số 8 và khẩu K54 theo chiếc xe. Hắn lửng thửng cuốc bộ ra đường đón xe đò về Sài Gòn chuyến sớm nhất.

Hai vợ chồng lên máy bay, Mỹ Hạnh cười rạng rỡ hôn má thằng “con Đế Quốc Mỹ“. Còn Lai nhìn qua cửa kính nhớ đến hai mươi năm trên mảnh đất gọi là VIỆT NAM với buồn tràn lấn vui cùng bạn bè anh em…

Họ đang bay tới nước Mỹ, xin hãy cầu chúc cho họ hạnh phúc; mong dĩ vãng cuối cùng chỉ là vết thẹo nhỏ sẽ mờ theo thời gian.

Đặc biệt xin hãy chúc lành cho mầm sống vừa mới nhú lên trong lòng người mẹ trẻ…

Nguoiviettudo ngày 12/12/2022

Be the first to comment

Leave a Reply

Your email address will not be published.


*