
Bài 1: Một đêm nghe Phạm Duy tự tình bằng âm nhạc
Tháng Ba năm 2006, một sự kiện âm nhạc được chờ đợi bởi nhiều thế hệ diễn ra ở Sài Gòn. Người đã đi qua cuộc chiến thì chờ đợi để được sống lại những ký ức của một thời tuổi trẻ hào hùng, thơ mộng. Người sinh sau cuộc chiến thì chờ đợi được diện kiến tác giả bằng xương bằng thịt của những ca khúc họ từng mượn lời để “đưa em về dưới mưa/nói năng chi cũng thừa.”
Giá vé của đêm nhạc Phạm Duy – Ngày Trở Về khá cao so với mức sống trung bình của những năm đó. Anh bạn đồng nghiệp khi ấy đã nói: “Anh chị phải đi xem đêm nhạc lịch sử này và sau đó sẽ không đi đâu chơi trong năm nay.”
Đêm nhạc Phạm Duy – Ngày Trở Về. (Ảnh: Tài liệu)
Dù vậy, để mua được vé của đêm nhạc cũng không phải dễ, vì vé bán rất nhanh. Có người phải nhờ vài mối giao tình với các công ty tổ chức sự kiện để tìm vé. Hai đêm diễn, ngày 3 và ngày 4 Tháng Ba năm 2006 bán sạch trong vài ngày. Đêm đầu tiên, con đường trước nhà hát Hoà Bình như những ngày sắp Tết. Từ bốn, năm giờ chiều, khán giả đã đến trước cửa nhà hát. Vé có số ghế chứ không phải ai đến trước có chỗ ngồi tốt. Vậy mà họ vẫn đến sớm, ngồi trên các bậc thềm, ăn bánh mì, và… xem những tấm poster của đêm nhạc. Xem và hồi tưởng. Những mái tóc đã chớm màu sương khói.
Chiến tranh chấm dứt khoảng 30 năm (tính đến thời điểm đó), thời gian chưa phải là quá dài để có thể làm phai mờ một phần đời của họ. Tôi nghĩ thế.
Người đàn ông tóc bạc tự tình quê hương
Đêm nhạc bắt đầu rất đúng giờ. Toàn bộ ánh đèn trong nhà hát tối lại dần. Tiếng xì xào lắng hẳn. Người ta có thể nghe rõ tiếng thở của nhau.
So với bây giờ, sân khấu của những năm 2000 còn đơn giản, thô sơ. Những hình ảnh đại gia đình của nhạc sĩ, hình ảnh về làng quê, thôn xóm, hình ảnh cậu bé Phạm Duy Cẩn thưở nhỏ cho đến nhạc sĩ Phạm Duy với tóc bạc trắng như tơ, chầm chậm trôi qua trong tiếng ngâm thơ của chính ông, nồng nàn,
“Cho tôi lại ngày nào
Trăng lên bằng ngọn cau
Me tôi ngồi khâu áo
Bên cây đèn dầu hao…”
Phạm Duy bằng xương bằng thịt xuất hiện sau câu ngâm cuối cùng của bài “Kỷ Niệm.” Đó cũng chính là lời chào của ông gửi đến hàng trăm khán giả ngồi phía dưới: “Kính thưa quí vị, đêm nay, coi như lời xin đi lại từ đầu của tôi đã được đáp ứng”. Với ông, kể từ hôm đó, ca khúc ông sáng tác năm 1972, “xin đi lại từ đầu” trong tâm trạng chán chường vì thời cuộc, đã có “một đời sống mới.”
Đêm hôm đó, thật sự là một đêm của Phạm Duy. Đêm ông trở về để kể cho đồng bào của ông nghe những câu chuyện lịch sử thời cuộc. Đêm ông trở về để tự tình cho khán giả của ông hoàn cảnh ra đời của 17 ca khúc trong gia tài âm nhạc đồ sộ trên dưới một ngàn sáng tác. Đêm hôm ấy, người có thể làm chủ sân khấu, điều hợp chương trình, không ai khác ngoài Phạm Duy.
Không cần nhạc đệm, không cần nhạc trưởng, ban nhạc hoàn toàn im lặng khi Phạm Duy cất tiếng nói. Giọng nói của ông trầm bổng, lên xuống, uốn khúc theo điệu ru khởi nguồn từ trong tâm hồn. Ông dẫn dắt người nghe đi từ câu chuyện này đến nhân vật khác. Mỗi một câu chuyện là dấu ấn của một sáng tác, từ hoàn cảnh ra đời cho đến nỗi niềm ẩn chứa sâu xa.
Ông vừa hát, vừa kể, vừa ngâm. Người nghe cứ thế trôi ngược dòng lịch sử, cùng ông về thăm “Quê Nghèo”, gặp “Bà Mẹ Gio Linh” – một câu chuyện có thật mà ông tự nhận mình đã may mắn là một phóng viên ghi lại thời sự bằng âm nhạc: “Không có ai dám đi lấy đầu của cán bộ về chôn, nhưng mẹ đã lẳng lặng đi lấy đầu con…”
Phạm Duy nói mà kể; kể mà hát; hát mà ru. Qua giọng nói của ông, khán giả thấy hiển hiện trước mắt một bà mẹ với đôi mắt rực lửa, không nói một lời, bước đến bên xác con, nhặt lấy đầu. Người hiểu nỗi đau ngút trời của mẹ lúc đó, là Phạm Duy. Người làm dịu nỗi sầu bi của mẹ lúc đó, cũng chỉ có thể là Phạm Duy. Ông đã đặt vào nơi xảy ra thảm kịch một ngôi chùa để nguôi ngoai lòng bà:
“Đường về thôn xóm buồn teo
Xa xa tiếng chuông chùa reo”
Sau mỗi câu chuyện lịch sử, ông kết thúc rất đơn giản, như: “Mời quí vị nghe Bà Mẹ Gio Linh do Duy Quang hát.” “Hát” chứ không phải “thực hiện” hay “trình bày”. Đơn giản là hát. Phạm Duy là bậc thầy về ngôn ngữ và ông “yêu tiếng nước tôi, từ khi mới ra đời.” Với ông, đơn giản là sự diễn đạt trang trọng nhất cho một tác phẩm nghệ thuật và cho tiếng nói của một dân tộc.
Cứ thế, 17 ca khúc trong đêm Phạm Duy – Ngày Trở Về lần lượt được chính người nhạc sĩ tự tình với khán giả bằng những lời dẫn ngọt ngào lẫn ai oán. Tôi tin chắc rằng, tất cả những ai có mặt đêm hôm đó, đều say với những điệu ru tha thiết, nồng nàn của một người nhạc sĩ đã “nguyện chết trên quê hương.”
Bài 2: Phạm Duy – người nguyện chết trên quê hương
‘Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà’
Buổi sáng mùa Đông Virginia tù mù sương. Gần giữa ngọ mà vẫn không thấy bóng mặt trời. Trong căn phòng đậm mùi thuốc lá, nhà phê bình văn học, ký giả Uyên Thao ngồi lặng lẽ trên chiếc ghế da đã sờn cũ. Ông cầm tách trà nóng trên tay, chậm rãi nói: “Từ từ rồi tất cả chúng tôi cũng đi hết, thằng Tấn (Chu Tấn), ông Chánh (nhạc sĩ Nguyễn Ngọc Chánh). Ông Hiên (Vũ Thư Hiên) thì cũng về bên kia để sống những ngày cuối đời.”
“Phạm Duy cũng là một người chọn trở về để nằm lại trên quê hương” – tôi nói với ông.
Đội thêm chiếc mũ da quen thuộc để giữ ấm, ký giả Uyên Thao cười nhẹ, rồi nói: “Một người như Phạm Duy, trước sau cũng phải về. Ông ấy đã chọn điều này ngay từ khi đặt chân đến Mỹ rồi. Ông ấy thân quen từng nẻo đường, mảnh đất, hình ảnh con trâu, ruộng lúa… Ông ấy nhìn đâu cũng thấy quê hương.”
(Ảnh: Ký giả Uyên Thao)
“Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà” là ca khúc được ra đời sau vài tháng ông đặt chân đến Mỹ, như là lời “thú tội” thiêng liêng Phạm Duy tự đưa ra cho mình.
Nhạc sĩ Phạm Duy lớn hơn ký giả Uyên Thảo khoảng 7, 8 tuổi. Nhưng họ gọi nhau là mày xưng tao. Lần đầu tiên hai người gặp nhau là ở Câu lạc bộ Văn Nghệ trên đường Phan Đình Phùng cùng với nhiều văn nghệ sĩ lớn tuổi khác. Hôm đó, ký giả Uyên Thao nói ông rất xúc động trước hình ảnh bà mẹ quê trong ca khúc cùng tên của Phạm Duy – “miệng khô, miệng khô nhớ bát nước đầy, nhớ bà mẹ quê xưa ấy.” Ông hình dung được hình ảnh một bà mẹ đầy lòng nhân hậu và lòng nhớ ơn của người đã nhận chỉ một bát nước.
Cảm khái tâm hồn đồng điệu của anh ký giả, Nhạc sĩ Phạm Duy đã đập vai Uyên Thao và nói: “Đúng rồi. Kể từ lúc này, tụi mình là bạn. Nhớ là phải mày, tao. Không mày tao, đéo chơi!”
“Ông ấy nói to lắm, sảng khoái, chẳng e dè. Mấy mươi năm sau gặp ông ấy ở Mỹ, cũng không thay đổi. Chúng tôi bước vào quán ăn. Ông ấy nói thật to khi nghe người phục vụ chào bằng tiếng Anh, “ngày xưa thì ‘tôi yêu tiếng nước tôi’ bây giờ thì ‘tôi yêu tiếng nước Tây’”– nhà báo Uyên Thảo nhắc lại.
Trước ngày nhạc sĩ Phạm Duy trở về nước, ông bay qua Virginia để gặp và từ biệt Uyên Thao. Cuộc gặp ngắn ngủi, nhưng đủ để Uyên Thao hiểu rằng, cuối cùng, Phạm Duy đã thực hiện được điều ông chờ đợi mấy mươi năm qua.
Khi ấy, Phạm Duy đã nói ký giả Uyên Thao: “Tao phải về để chết trên quê hương.” Đó cũng là lần cuối cùng hai người bạn đã đi qua hai cuộc chiến được gặp nhau.
Phạm Duy: “Như một người Việt Nam! Đầu là Bắc Việt, Trái tim là Trung Việt, cái dạ dày là Nam Việt. Bởi đó, tôi muốn người đời nhớ tôi (suy tư) … như một người Việt Nam” (Ảnh: Tài liệu)
“Có lẽ trước khi về, ông ấy cũng đã dự đoán trước những áp lực mình gặp phải, nói về mặt chính trị, trong cũng như ngoài nước…” – tôi nói, bâng quơ.
Ký giả Uyên Thao hiểu tôi muốn nói gì. Ông nhẹ lắc đầu và nói:
“Phạm Duy là người không sợ gì cả. Ông ấy chẳng cần sự thoả hiệp nào. Đối với một người như Phạm Duy, không nên nhìn vào cuộc sống riêng tư của ông ấy rồi xét đoán theo quan điểm của mình. Nó không có chút ý nghĩa gì với cuộc đời của ông ấy.”
Nghe điều này, tôi chợt nhớ đến một việc, tôi kể ngay cho nhà báo Uyên Thao nghe.
Đi để trở về, trở về để ra đi
Phải đến hơn mười năm sau khi nhạc sĩ Phạm Duy đã về Việt Nam sống cuộc đời còn lại, một kênh YouTube khá nổi tiếng ở Nam California đã tìm đến ông xin phỏng vấn. Nhiều câu hỏi đặt ra cho ông về “những dư luận, chỉ trích đối với quyết định về nước”, muốn biết “ông đối phó với điều đó như thế nào?”
Bốn nữ danh ca Thái Thanh, Quỳnh Giao, Lệ Thu và Mai Hương cùng hòa giọng trong nhạc phẩm Tình hoài hương của nhạc sĩ Phạm Duy. Hình ảnh trong buổi họp mặt tiễn ông về Việt Nam định cư năm 2005. Cả bốn người trong ảnh nay đã thành “người muôn năm cũ”. (Ảnh: Forevermissed)
Khi ấy, nhạc sĩ Phạm Duy – người tự nhận là “đôi chân không còn nghe lời ông nữa”, đã trầm tĩnh trả lời: “Tôi chẳng để ý gì đến những điều đó. Có lẽ họ có lý do của họ. Nếu họ không yêu tôi nữa thì đừng hát nhạc của tôi. Còn nếu họ hát nhạc của tôi và vẫn nói xấu tôi, thì cũng… rất bình thường thôi.”
Hiếm có ai, một văn nghệ sĩ nào, từ cổ chí kim, dám nhận định “tôi là cây đại thụ.” Nhưng Phạm Duy thì đã. Ông đĩnh đạc nói: “Tôi phải là người cổ thụ thôi, vì trước tôi, đâu có ai viết tân nhạc. Tôi là một trong những người thành lập nên nền tân nhạc, cùng với ông Văn Cao, ông Nguyễn Xuân Khoát” (tác giả của các ca khúc dân gian như Con cò mày đi ăn đêm, Con voi, Thằng Bờm…). Ông nói các giai điệu (tân nhạc) do ông sáng tác đã ảnh hưởng đến các nhạc sĩ sau này mà họ không biết.
Nhưng rồi sau đó, “ông già tóc bạc” nhẹ giọng, mỉm cười và nói: “Nhưng thôi, nói cổ thụ thì hơi quá. Nói tôi là ông già là được rồi.”
Ký giả Uyên Thao gật gù: “Ông ấy đã chờ đợi suốt 30 năm, đến đúng thời điểm thì về.” Chuyến bay ngày 17 Tháng Năm năm 2005 đã đưa ông từ California về Việt Nam, trả ông về lại nơi đã cho ông nguồn năng lượng vô biên. “Việt Nam cuối cùng là nơi tôi về để sống chết với quê hương, đúng hơn là với đồng bào của tôi” – ông đã từng nhiều lần nói như thế.
Cây cổ thụ ấy, hay “ông già” ấy đã nằm xuống trên mảnh đất quê hương của ông, với đồng bào của ông. Như Ký giả Uyên Thao đã nói, một người như Phạm Duy, đi là để trở về, trở về để ra đi. Ông ra đi, sau khi kịp vun đắp vào gia tài đồ sộ của nền âm nhạc Việt một tuyệt cảnh cuối cùng: Minh hoạ Truyện Kiều.
(Ảnh: Edited by SGN)
Bài cuối: Phạm Duy và Kiều
Phạm Duy là một người rất tham lam, và đó là cái tham lam kỳ tài, tham lam tạo ra sự sống. Tôi mạn phép mượn cách nói văn hoa của người đời khi nói về ái tình, chỉ đổi chữ một chút, ví von thế này: “Hầu như tất cả nhà thơ Việt Nam đã đi qua đời Phạm Duy rồi.”
Khi tôi nói “đời” đây, chẳng có gì khác hơn, chính là nhạc của ông. Kể ra thì vô số, như Nguyễn Bính, Phạm Thiên Thư, Du Tử Lê, Nguyễn Tất Nhiên, Hữu Loan, Lê Thị Ý, Cung Trầm Tưởng, Minh Đức Hoài Trinh… thậm chí cho đến thi nhân sống trước ông hơn trăm năm, cũng rơi vào “đời” Phạm Duy, cùng ông để lại kiệt tác cuối cùng – Minh Hoạ Kiều, trước khi “người hát rong của thế kỷ” rời cuộc sống.
(Ảnh: Tư liệu trang phamduy.com)
Hình ảnh Truyện Kiều trong nhạc Phạm Duy
Phạm Duy là người rất say mê tác phẩm kinh điển Đoạn Trường Tân Thanh của thi hào Nguyễn Du. Ai tìm hiểu về cuộc đời Phạm Duy cũng biết ông là người rất yêu thơ. Trước khi bắt tay vào làm Minh Hoạ Kiều, ông đã một lần để linh hồn của điển tích này xuất hiện trong phần ba của trường ca “Con đường cái quan” (Vào miền Nam) ông sáng tác từ năm 1954 đến 1960. Đó là bài hát “Đi đâu cho thiếp theo cùng”.
“Đi đâu cho thiếp theo cùng
Đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam
Ví dầu tình có dở dang
Thì cho thiếp gọi đò ngang thiếp dzìa
Tới đây lạ xứ quen người
Trăm bề (mà) nhún nhẳn đừng cười tôi nghe
Ví dầu tình bén duyên thề
Thì xin kết bạn đền nghì trúc mai”
Phạm Duy đã mượn đúng bốn từ “đền nghì trúc mai” trong câu 708 của Truyện Kiều để diễn tả tâm ý của người vợ tiết hạnh, khi đã nên duyên nên nợ thì nguyện cả đời theo chồng, tình nghĩa khắng khít như cây trúc, cây mai.
“Biết bao duyên nợ thề bồi
Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì?
Tái sinh chưa dứt hương thề
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai”
(Truyện Kiều)
Chỉ khác là, duyên nợ ba sinh trong Truyện Kiều là những câu thơ lúc Kiều bán mình cho Mã Giám Sinh. Trước khi theo họ Mã về Lâm Tri, Kiều ngồi một mình đối bóng với đèn khuya, nhớ mối tình đã giao ước với chàng Kim nay phải dở dang, đau lòng nguyện ước nếu “tái sinh chưa dứt hương thề” thì sẽ “làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.”
Còn “đền nghì trúc mai” của “Đi đâu cho thiếp theo cùng” trong “Con đường cái quan” của Phạm Duy là lời ngỏ ý duyên dáng, chắc “như đinh đóng cột” của người miền Nam thuỷ chung. Đại khái là, “hổng nên duyên nên nợ thì tui lên đò ngang tui dìa với tía má. Còn hợp ý ông tơ bà nguyệt, thì tui nguyện cả đời nâng khăn sửa túi. Tui hứa đó nhen.”
Năm 1977, trong bản nhạc “Nguyên Vẹn Hình Hài”, ông trọn vẹn nhắc đến Truyện Kiều với niềm tự hào vô biên về thi tài của dân tộc mình:
“Ai có về biển dài cát rộng
Nơi công dân nào cũng làm thơ
Tôi hết thuộc lời vàng châu ngọc
Xin ru tôi nghe truyện Kiều xưa…
Quê hương tôi thi vị đầy trời
Con tim tôi luôn được đầy vơi…”
‘Minh Hoạ Kiều’ – Tác phẩm cuối cùng
Trở lại với Minh Hoạ Kiều, ông hoàn tất ba phần đầu trong thời gian ở hải ngoại, “sau đó thì tịch ngòi” – theo lời ông nói. Cho đến khi về Việt Nam, ông và con trai Duy Cường mới hoàn tất hoàn toàn phần thứ tư.
Phạm Duy biết trước, Minh Hoạ Kiều chính là tác phẩm cuối đời của ông. Ông chọn Truyện Kiều vì “thi phẩm này tiêu biểu cho tâm thức Việt Nam trong khi tôi đã giã từ loại nhạc thế tục để đi vào loại nhạc tâm linh. Tôi còn muốn trung thành với lý tưởng điều hợp xã hội bằng âm nhạc cho nên tôi muốn dùng lời thơ vĩ đại của Tố Như và nét nhạc nhỏ nhoi của tôi để làm nơi tự tình cho những ai đã chót lìa nhau, đã chót xa nhau hơn nửa thế kỷ.” (trích Truyện Kiều Và Tôi – Vài Lời Về Nhạc Phẩm Cuối Đời).
(Ảnh: Tư liệu trang phamduy.com)
Bốn phần của Minh Hoạ Kiều không bao gồm tất cả hơn 3000 câu thơ của Nguyễn Du. Phạm Duy chỉ trích những câu chủ chốt để MINH HOẠ 15 năm trầm luân của nàng Kiều trong bốn phần:
- Mở đầu: Giới thiệu không gian, thời gian, nhân vật.
- Phần Một: Kiều gặp Đạm Tiên, bị hồn Đạm Tiên mê hoặc, đeo bám suốt 15 năm lưu lạc.
- Phần Hai: Kiều gặp Kim Trọng, mối tình sâu đậm nhưng không trọn vẹn.
- Phần Ba: Kiều bước vào cuộc đời luân lạc, gặp những kẻ hãm hại nàng, như Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Hoạn Thư…
- Phần Bốn: Kiều gặp anh hùng Từ Hải, một bước lên ngôi phu nhân, nhưng rồi Từ Hải cũng vì nàng mà phải chết đứng.
- Kết: Kiều gieo mình xuống sông Tiền Đường.
Với Đoạn Trường Tân Thanh của cụ Nguyễn Du, chúng ta sẽ “THẤY” rõ cái bi kịch của thân phận tài sắc trước định mạng. Với Minh Hoạ Kiều của Phạm Duy, chúng ta vừa được THẤY, vừa được NGHE. Có vẻ như ông đã gom góp hết sức lực và tất cả những tinh tuý ông thu nhặt được suốt cả đời sáng tác để đặt vào tác phẩm cuối đời này.
Bốn phần của Minh Hoạ Kiều là sự kết hợp, giao hoà âm sắc của các nhạc cụ dân tộc như đàn tranh, đàn nguyệt, đàn bầu, trống, phách… với các nhạc cụ đương đại phương Tây. Theo Phạm Duy giải thích, “minh hoạ là hiển dương, là làm tăng thêm vẻ đẹp sẵn có của thi phẩm.” Ông đã làm đúng như thế.
“Rằng năm Gia Tĩnh Triều Minh / Bốn phương phẳng lặng hai kinh vững vàng” thì phải được minh hoạ bằng giai điệu tráng lệ, hào hùng. Ông diễn giải: “Có pha âm sắc của nhạc Trung Quốc bởi vì đây là thời Gia Tĩnh Triều Minh.”
Cụ Nguyễn Du cho chúng ta hình dung bức tranh “ngày Xuân con én đưa thoi” với cánh đồng cỏ non xanh ngát chân trời, thì Phạm Duy cho chúng ta nghe được cả tiếng chim hót, tiếng suối chảy, cảm được âm thanh của ngày Xuân tươi đẹp đang bủa vây quanh mình.
Giáo sư Trần Văn Khê và nhạc sĩ Phạm Duy trong buổi ra mắt Minh Hoạ Kiều 1 và 2 do Thư viện Diên Hồng, Paris tổ chức. (Ảnh: Tư liệu Thư viện Diên Hồng)
Trong một lần hiếm hoi, Giáo sư Trần Văn Khê nói về nhạc Phạm Duy: “Không chỉ bằng sự đa dạng, phong phú thôi, mà Phạm Duy đã dám phá cách lục bát để thực hiện được những điều mà cụ Nguyễn Du mong muốn.”
Phá cách đây có thể hiểu là cắt, đảo, lặp lại câu từ. Cụ Nguyễn Du kể rằng:
“Chàng Vương quen mặt ra chào
Hai Kiều e lẹ nép vào dưới hoa”
Và Phạm Duy đã “minh hoạ” lại bằng câu hát:
“Chàng Vương quen mặt ra chào
Khép nép dưới hoa
Khép nép dưới hoa
Hai Kiều”
Đảo từ như thế, cộng thêm lời ca/ngâm, thật rõ ràng như thể trước mắt, hình ảnh hai giai nhân Thuý Kiều, Thuý Vân đang e lệ bên khóm hoa, kia là chàng Vương Quan hớn hở bước đến chào người quen.
Hoặc:
“Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm”
được Phạm Duy minh hoạ rằng:
“Dập dìu tài tử y ý
Dập dìu giai nhân ý y
Ngựa xe như nước ư ứ
Áo quần như nêm ừ ư…”
Một hình ảnh đông vui, náo nhiệt của lễ hội Thanh Minh. Người thường thường thì đi bộ, kẻ cao sang thì đi võng, cỡi ngựa. Âm nhạc, giai điệu vui tươi, phấn khởi. Nhắm mắt mà nghe, cứ như mình đang đi lạc trong dòng người trẩy hội mấy trăm năm trước.
Phối hợp nhạc cụ dân tộc và nhạc cụ tân thời, hoà hợp dân ca, điệu hò của ba miền, mượn lời thơ rồi làm cho thơ sống động, hiện sinh, đó là kỳ tài của Phạm Duy. Giáo sư Trần Văn Khê không xa lạ với điều này. Ông nói về “cái tôi” rất lớn trong âm nhạc của Phạm Duy mà ông đã biết từ những năm 54, khi hai người sang Pháp học.
Khi đó, Giáo sư Trần Văn Khê hỏi Phạm Duy rằng “ông đã học được những gì?”. Câu trả lời của nhạc sĩ là: “Biết cũng nhiều chuyện lắm, nhưng học với ông thầy rồi để gửi trả lại cho ông thầy, nếu để ông thầy chi phối mình thì còn gì là mình.”
“Phạm Duy không để nhạc phương Tây chi phối. Biết học và biết lúc nào phải giữ, lúc nào không. Hồn nhạc quyện hồn thơ, thơ dính vào trong nhạc” – Giáo sư Trần Văn Khê nói về Phạm Duy như thế.
Minh Hoạ Kiều là tác phẩm cuối của Phạm Duy – người hát rong của thế kỷ. Như đã nói, ông chọn Kiều của cụ Tố Như vì muốn “làm nơi tự tình cho những ai đã chót lìa nhau, đã chót xa nhau hơn nửa thế kỷ.” Có phải chăng, ẩn sâu trong thâm ý đó là lời gửi gắm ông để lại cho một mảnh đất – tình yêu lớn nhất mà ông và nơi đó “đã chót xa lìa nhau hơn nửa thế kỷ”?
Kalynh Ngô
Theo SGN News ngày 10, 11 & 15 tháng 1, 2023
Be the first to comment