Đất Nầy Là Của Chúng Tôi !

(Tranh digital painting của Lâm Nguyễn Kha Liêm)

Lời người viết: Tháng Ba, mở đầu trận Ban Mê Thuột (10 Tháng 3, 1975) để 55 ngày sau sụp đổ Sài Gòn – 30 Tháng 4, 1975. Ngày ấy, người viết vừa qua tuổi 30, nay vào buổi cuối đời thấy ra những điều đơn giản, cụ thể mà hình như ai cũng (có thể) thấy, nhưng không mấy ai nói lên, chắc rằng do chúng quá tầm thường nhỏ bé! Nên có những lời “chân thực” nầy.

Tháng Ba năm xưa, ghi vội tường trình trên đường xa (1)
Hôm nay nhận ra,
Cấp thiếu, đại úy… quân đội cộng hòa
Không cách chi kết thành tội “ngụy quân bán nước”!
Viết chân thành câu, tiếng lời trung trực
Chẳng hề đụng phạm tới ai!
Bộ chính trị/Đảng cộng sản là gì, ở đâu hoàn toàn xa lạ?!
Chợt nhìn lại ôi xót xa kinh hãi
Hóa ra cuộc đời nầy ngập ngập oan khốc bi ai
Sự thật đơn sơ không mấy người thấy được?

Đất nầy của chúng tôi!

(Tranh digital painting của Lâm Nguyễn Kha Liêm)

Tổ tiên lưu dân theo chân Chúa Nguyễn vào Nam mở nước
Thế kỷ 17!
Trước rất xa lần “Tuyên ngôn thợ thuyền” Karl Marx, Lê Nin (2)
Tổ tiên tộc Nguyễn, Lê… thuần thành “nông dân” khốn khổ
Khai canh nên xóm, làng, bản thổ
Không hề có mặt “địa chủ?!”
Quê hương từ Ải Nam Quan, xuống sông Mã, sông Hồng
Liền một giải tiếp miền sông Cái, Cửu Long…
Không bóng dáng một lần “thực dân, đế quốc?!”
Tay dao, tay cuốc, đầu vấn khăn rằn phăng rừng tràm
Dọn sạch vùng U Minh ngun ngút bạt ngàn
Ở đâu nên “giai cấp tư bản?!”

Đất nầy của chúng tôi!

Qua hết hai châu Ô, Rí (3)
Lượng mồ hôi đổ xuống
Mặn thắt giòng Thạch Hãn truân chuyên
Đá kia phải bật khóc!
Nước sông Hương thơm ngát mùi trầm
Bởi bao kiếp người đã ngậm đắng, nuốt cay, xé trời, tươi giọt máu (4)
Sông Hàn lung sóng lô xô (5)
Thống khổ miền Trung kết nên tượng đá u trầm nhìn xuống
Bãi Đại Lãnh bao năm chờ hiu quạnh (6)
Tô Thị nơi nao cùng chung nỗi não lòng, nặng trĩu thương tâm! (7)

Quê Hương nầy của chúng tôi!

Hãy đứng lại bên nầy bờ Rạch Miễu
Nên hiểu ra ngọn nguồn ngờm ngợp khói sóng Tiền Giang
Đêm neo đò nơi vùng Châu Đốc
Nghe âm âm dề lục bình cuồn cuộn giòng Hậu Giang
Về chín cửa Rồng bát ngát
Cay đắng hỏi tại sao nay Cần Thơ ngập mặn?!
Người miền Nam phải ăn khoai, sắn, bo bo?

Đất nước nầy là của chúng tôi

(Tranh digital painting của Lâm Nguyễn Kha Liêm)

Sài Gòn đẹp toàn khối như một hòn ngọc
Trưa lặng lờ nghe gió thổi hàng me
Bà gánh chè rao lên giọng vút cao thăm thẳm
Chiều lắng xuống, tắt mặt trời mát rượi
Gió hây hây thổi rối tóc cô hàng nơi bến phà qua miệt Thủ Thiêm
Ôi nồng nàn êm ả cảnh ban đêm
Anh chờ em… Vén áo, ngồi lên yên sau chậm rãi
Để dài hơn đoạn về Phú Nhuận, Đa-Kao
Sài Gòn ấm áp “ông tui” từng tiếng thân chào
Buổi sáng thức giấc cùng xích-lô máy nổ..
Nơi quán cà phê, chòm xóm gặp nhau tở mở
Nâng dĩa lên, uống một hớp xây-chừng (8)
Lóng rày tui bớt phần… ạch đụi, khó khăn!
Chẳng hề “ai bóc lột ai”!

Đất nầy là của chúng tôi!

Thằng Út đến tuổi động viên
Chi bằng đăng lính đi Thủ Đức
Lương chuẩn úy chị Hai hắn phải thêm tiền mua thuốc hút
Tháng Ba vỡ trận cao nguyên
Tỉnh lộ 7 là nơi nào? (9)
Chết bao năm không tìm ra xác!
“Giải phóng”, bộ đội cụ Hồ miền Bắc
Lớp lớp tràn vô Nam tiếp quản
Bàn thờ phải lệnh dẹp ngay
Giặc Mỹ-Ngụy bao phen “gây nợ máu”
Mẹ già nổi lửa đốt hình con
Không được khóc!
47 năm “chuyện nhỏ” lần qua
Chẳng mấy ai còn nhớ
Cuối buổi chập chờn ẩn hiện
Lờ mờ cõi tạm trần gian
Chỉ một điều thấm sâu ghi khắc

ĐẤT NẦY LÀ CỦA CHÚNG TÔI!

Cali, Tháng 3, 2023
Nhớ ngày 10 Tháng 3, 1975 vỡ trận Ban Mê Thuột

Phan Nhật Nam
Theo Saigon Nhỏ ngày 26 tháng 2, 2023

Ghi chú:

(1)– 13 Tháng 3, 1975: Người viết có mặt tại Pleiku. 16/3 bắt đầu cuộc di tản về đồng bằng.
(2)– Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản, 21 Tháng 2, 1848
(3)– Quảng Trị-Thừa Thiên
(4)– Ngậm ngãi tìm trầm – Ca Dao, Tục Ngữ VN
(5)– Sông Hàn: Quảng Nam-Đà Nẵng
(6)– Hòn Vọng Phu nhìn xuống Bãi Đại Lãnh, ranh giới Phú Yên-Khánh Hòa
(7)– Tượng Tô Thị nơi Miền Bắc
(8)– Cà-phê
(9)– Đường di tản từ Cao Nguyên về Đồng Bằng (3/1975)

Be the first to comment

Leave a Reply

Your email address will not be published.


*