
NGƯỜI ÔNG TẠ TRONG HẢI CHIẾN HOÀNG SA
(Một phần được trích trong “Sài Gòn một thuở – Dân Ông Tạ đó” tập 2 – đã phát hành)
0g đêm 16 rạng 17-1-1974, 25 tháng Chạp, còn vài ngày nữa là tết. Vùng Ông Tạ đang tràn ngập không khí đón tết Giáp Dần 1974 thì ít nhất bốn cư dân vùng Ông Tạ lặng lẽ cùng chiến hữu lướt sóng Biển Đông tiến ra Hoàng Sa.
Bốn vị đó là Hạm trưởng HQ-4 Trần Khánh Dư, Vũ Hữu San, nhà ở ngõ Con Mắt (nay là hẻm 766 Cách Mạng Tháng Tám); thợ máy tàu HQ-800 (cơ xưởng hạm nổi chuyên sửa chữa tàu ngoài khơi) Nguyễn Xuân Hiển nhà gần ngã tư Thoại Ngọc Hầu (nay là Phạm Văn Hai) – Trương Minh Ký (Lê Văn Sỹ); Hải quân trung úy Vũ Đình Huân của tàu HQ-10, có gia đình ở khu Cầu Sạn – Ông Tạ, sau đó riêng anh về khu nhà thờ Hầm ở Thăng Long, Phú Thọ (anh Huân vừa đính hôn xong, chuẩn bị sau khi đi trận về sẽ làm lễ cưới); Hải quân trung sĩ điện tử HQ-10 Nguyễn Quang Xuân, trong nhà và hàng xóm gọi là Sinh. Hai anh sau cùng xứ Tân Chí Linh của tôi.
Nhà 4 anh đều cách đều nhà tôi trên dưới 200m, tôi qua lại hàng ngày.
HQ-4 là chiến hạm thuộc lớp hiện đại nhất thời điểm ấy của Hải quân Việt Nam Cộng hòa. Trước đây, nó là tàu hộ tống USS Forster của Hải quân Mỹ từ 1944, năm 1971 bàn giao cho Hải quân Việt Nam Cộng hòa. Tàu dài 93 m, rộng 11,15 m, choán nước 1.590 tấn; vận tốc 22 hải lý/g (39 km/g); tàu có tầm hoạt động 16.900 km khi chạy ở tốc độ tiết kiệm 22 km/g.
HQ-4 có hai pháo 76,2 ly, một số súng 20 ly. Theo hồi ký ông Lữ Công Bảy, hạ sĩ quan phụ tá trưởng ngành hàng hải kiêm trưởng khối hành quân trên tàu HQ-4, hệ thống nạp đạn và bắn của hải pháo 76,2 ly điều khiển bằng điện. Thủy thủ đoàn 170 người.
Tối 17-1, HQ-10 Nhật Tảo và HQ-5 Trần Bình Trọng từ Đà Nẵng cũng tiến ra Hoàng Sa. Hạm trưởng HQ-5 là trung tá Phạm Trọng Quỳnh. Hạm trưởng HQ-10 là thiếu tá Ngụy Văn Thà. HQ-5 là soái hạm (tàu chỉ huy) của chiến dịch Hoàng Sa nên có đại tá Hà Văn Ngạc, chỉ huy trận hải chiến này.
HQ-5 và HQ-16 tương tự nhau, cùng là tuần dương hạm; dài 94,72 m, rộng 12,52 m, choán nước 1.766 tấn (tối đa là 2.800 tấn), vận tốc tối đa 18 hải lý/giờ (34 km/g). Vũ khí trên tàu gồm một pháo 127 ly trước mũi; một pháo 40 ly đôi ở sân thượng phía trên khẩu 127 ly; hai khẩu 40 ly hai bên hông và hai khẩu 20 ly hai bên hông đài chỉ huy. Thủy thủ đoàn HQ-5 khoảng 200 người.
HQ-10 là hộ tống hạm, chiến hạm nhỏ nhất và yếu nhất của Hải quân Việt Nam Cộng hòa trong cuộc hải chiến. Nó vốn là tàu quét mìn của Hải quân Mỹ, hạ thủy năm 1943, chuyển giao cho Việt Nam Cộng hòa năm 1964; chỉ dài 56,24 m, rộng 10 m, choán nước 650 tấn, vận tốc tối đa 14 hải lý/g (26 km/g). HQ-10 có 1 pháo 76 ly ở phía mũi, 2 súng 40 ly hai bên hông, 4 súng 20 ly đôi ở hai bên đài chỉ huy. Vận tốc tàu đã chậm, khi ra Hoàng Sa, HQ-10 đã hư một trong hai máy. Nhưng HQ-10 ra Hoàng Sa vì lúc đó nó gần Hoàng Sa nhất so với các tàu khác. Theo nhiều ghi chép, do tàu nhỏ, yếu, hư một trong hai máy nên đêm 18-1, HQ-10 mới ra tới Hoàng Sa.
Tư lệnh Hồ Văn Kỳ Thoại “chỉ định trung tá Vũ Hữu San giữ chức vụ chỉ huy chiến thuật (OTC-officer in tactical command) phân đội hoạt động vùng Hoàng Sa, gồm tuần dương hạm HQ-16 và khu trục hạm HQ-4 Trần Khánh Dư”. Trung tá Vũ Hữu San là con cả cụ Vũ Hữu Soạn, trong ngõ Con Mắt.
TÌNH THÂN HỮU CỦA CÁC GIA ĐÌNH TRONG NGÕ CON MẮT
Đi từ đầu ngõ Con Mắt vào chừng năm chục thước là gặp ngã tư chòi canh cháy. Đi tiếp chừng gần trăm thước là nhà cụ Soạn, rồi tới nhà cụ Bùi Trọng Thúc, ba ông Bùi Đại Hưng (Hưng “điên”), ông nội MC Đại Nghĩa hiện nay.
Bên kia đường, cách ba, bốn nhà có nhà cụ Thuần, ba của trung tá Nguyễn Văn Nhã. Cụ Thuần với cụ Thúc là bạn thân từ hồi là sĩ quan Đông Dương, trong Quân đoàn Pháp chiếm đóng Thượng Hải, Thiên Tân bên Tàu. Thời cụ Thúc là quan hai cảnh sát (chef adjudant de la police de shanghai) trong vùng tô giới của Pháp thì cụ Thuần là quan một, thông dịch viên Hán – Pháp cho nhà cầm quyền Pháp tại thành phố Thiên Tân. Vậy nên cụ Thúc và cụ Thuần coi nhau anh em với nhau, giỗ chạp, tết nhất đều có nhau.
Cụ Soạn và cụ Thuần cũng là bạn bè thân thiết như anh em suốt từ lúc cùng đơn vị trong quân ngũ thời Liên bang Đông Dương. Khi cụ Thuần huấn luyện quân sự cho Khu tự trị Bùi Chu, gia đình cụ Soạn chạy lánh nạn chiến tranh đến đây, được cụ Thuần che chở, đùm bọc. Khi Quốc gia Việt Nam (tiền thân Việt Nam Cộng hòa) của Quốc trưởng Bảo Đại thành lập, cả cụ Thuần lẫn cụ Soạn là những sĩ quan đầu tiên.
Khi con cả cụ Thuần là anh Nhã tình nguyện học khóa sĩ quan trừ bị đầu tiên ở Hà Nội, ra trường năm 1950 (thiếu úy trẻ nhất của Quân đội Quốc gia Việt Nam lúc đó – 17 tuổi), phân công về Khu chiến Hưng Yên, cụ Soạn, lúc ấy là trung úy cũng đổi đến đó. Cùng đơn vị này còn có đại úy Nguyễn Văn Thiệu (sau này là tổng thống), trung úy Cao Văn Viên (sau là đại tướng)…
* Cha Hạm trưởng HQ-4 Vũ Hữu San là cụ Vũ Hữu Soạn, vốn là cựu quân nhân, từng là trung tá trưởng Phòng 1 – Tổng quản trị Bộ Tổng tham mưu. Quê cụ ở huyện Gia Khánh, nay là Hoa Lư, Ninh Bình; cách nhà ông bà, cha mẹ tôi vài cây số.
Trước khi về ngõ Con Mắt, nhà cụ trong cư xá sĩ quan Trần Hưng Đạo (trong khuôn viên Bộ Tổng tham mưu Việt Nam Cộng hòa – nay là Bộ Tư lệnh Quân khu 7) trên đường Võ Tánh (nay là Hoàng Văn Thụ) ít lâu. Ở đây, ra vào cổng bị kiểm tra an ninh thắt ngặt quá, gia đình cụ không thích, dời về ngõ Con Mắt. Khu này lúc ấy còn sình lầy, nhà cụ nhìn ra cánh đồng rau muống An Lạc. Cụ bảo vợ con: “Ở đây, không sang trọng, oai vệ bằng bên kia nhưng thoải mái, tự do; hàng xóm xung quanh lại toàn bà con ngoài Bắc mình”. Cụ vốn đạo Thờ Ông Bà, sau theo đạo Phật.
San, con trai cả cụ Soạn và Tụng, con trai kế cụ Thuần cùng học trường Chu Văn An nhưng khối lớp khác nhau. Khi ông San lập gia đình, vợ trung tá Nhã sang phụ làm bánh cho đám cưới. Hôm con trai cả cụ Thuần mất bên Mỹ, cụ Soạn lúc đó đã hơn 90 tuổi cũng từ Canada sang viếng.
Con trai cả cụ Thuần là trung tá Nguyễn Văn Nhã, cũng làm ở Bộ Tổng tham mưu; con trai thứ tên Tụng… Chị Bùi Vũ, con gái cụ Soạn, em gái kế ông San bảo: “Gia đình cụ Thuần nghiêm cẩn. Các con đều học giỏi, sống đạo đức”.
* Ông bà cụ Soạn 10 con, cả 10 đều đều học hành giỏi giang, có học vị. Hải quân trung tá Vũ Hữu San là con cả, vợ dạy Quốc gia Nghĩa Tử (nay là trường nghề Lý Tự Trọng). Ông San giống tính bố: cứng cỏi, cương trực; sống thanh bạch, không uống rượu, hút thuốc và không bao giờ “ăn bẩn”.
Em gái ông San là bà Bùi Vũ bảo: “Anh San rất règle (mực thước), không có ngoại lệ, phải nói là vì kỷ luật Hải quân là như thế. Tuy vậy anh ấy lại là người con trai trưởng rất gương mẫu, chưa bao giờ bị cha mẹ phải la mắng lấy một lần. Đứa con thứ nhì bị thành kiến nói là ương ngạnh khó dạy bảo nhất là tôi nhưng cũng không dám hó hé một tiếng với anh San. Chín đứa em đều kính nể ông anh cả, không đứa nào dám cãi anh San”.
Cũng theo bà Bùi Vũ, tết nhất, gia đình chỉ lo chuyện cúng gia tiên, mừng tuổi cha mẹ, lì xì con cháu; chưa bao giờ ăn tết linh đình… Ông San là con cả càng gương mẫu, ăn uống thường sơ sài theo câu “ăn để mà sống, chứ không phải sống để mà ăn”. Cả đời hình như ông San chưa tỏ ý thích món ăn nào cả và ăn gì cũng không bao giờ ăn nhiều; có lẽ ông nghĩ rằng chỉ ăn no bảy tám phần mười thôi để thân thể được nhẹ nhõm thảnh thơi và sống lâu như cha mẹ. Ông cụ Soạn mới mất 2018, 104 tuổi. Bà cụ Soạn hiện nay 2022 đã 107 tuổi, còn khỏe, mình mẫn, đọc sách báo không cần kính.
Trong gia đình, như cha, ông San lấy vợ rồi là một đời chung thủy, dù tính ông vốn nóng, cái gì ra cái đó. Khi nguy khốn, như trong Hải chiến Hoàng Sa, tính cách đó bộc lộ rất rõ.
TRƯỚC 6G SÁNG 19-1-1974
Quần đảo Hoàng Sa gồm 130 đảo san hô, mỏm đá ngầm và bãi cát nằm rải rác trên 5.800 dặm vuông trên Biển Đông, cách gần đều cảng Đà Nẵng của Việt Nam (200 hải lý) và đảo Hải Nam của Trung Quốc (162 hải lý). Diện tích của toàn quần đảo (chỉ tính mặt đất) khoảng ba dặm vuông. Hầu hết các đảo hợp thành nhóm đảo An Vĩnh (Amphitrite Group) về phía đông bắc và nhóm đảo Nguyệt Thiềm/Lưỡi Liềm (Crescent Group) về phía tây, cách nhau khoảng 39 hải lý. Đảo Phú Lâm (Woody island) thuộc nhóm An Vĩnh lớn nhất trong các đảo thuộc Hoàng Sa, có diện tích khoảng hơn 5 km2 (530 hecta).
Việt Nam Cộng hòa tiếp quản nhóm đảo Nguyệt Thiềm/Lưỡi Liềm từ năm 1954. Trung Quốc kiểm soát nhóm đảo An Vĩnh và đảo Phú Lâm vào năm 1956. Năm 1959, với hỗ trợ của chính quyền Trung Quốc, ngư dân Trung Quốc từng đổ bộ lên đảo Quang Hòa (Duncan) nhưng Hải quân Việt Nam Cộng hòa đã xua đuổi họ đi.
… Trong hồi ký của mình, đại tá Hà Văn Ngạc viết: “Soái hạm HQ-5 đến lòng chảo Hoàng Sa (lúc 15g chiều 18-1) đã thấy lực lượng biệt hải đổ bộ trên tàu HQ-4 và HQ-16 đang kiên cường trấn giữ các đảo Hữu Nhật (Robert), Quang Ảnh (Money), Duy Mộng (Drummond). Phía đảo Quang Hòa, tàu Trung Quốc đang lờn vờn bên ngoài (tất cả thuộc nhóm đảo Nguyệt Thiềm/Lưỡi Liềm)”. Thực tế ngay sau đó, lực lượng Trung Quốc đã đổ bộ phía Bắc đảo Quang Hòa.
Đêm 17 rạng 18-1, hai bên đã đấu khẩu nhau, cùng xác nhận chủ quyền ở Hoàng Sa. Sáng 18-1, HQ-4 dùng mũi tàu ủi thẳng tàu cá 407 khi trên tàu lố nhố “ngư dân” có đủ thượng liên, AK-47. 407 bỏ chạy. Bên kia, HQ-16 cũng quyết liệt đuổi tàu cá vũ trang 402.
Chiều 18-1, ba chiến hạm HQ-4, HQ-5, HQ-16 tiến về đảo Quang Hòa. Hai tàu 271, 274 cản đường. Các tàu tạm lui về nhóm đảo Hoàng Sa. Suốt đêm 18 rạng 19-1, các tàu Trung Quốc vẫn cứ lởn vởn quanh đảo Hoàng Sa.
Tính hạm trưởng San vốn quyết liệt, ông yêu cầu anh em HQ-4 phát còi hơi vang động và rọi đèn hồ quang chói rực vào các tàu Trung Quốc khiến họ buộc phải rút.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chỉ thị: “Tìm đủ mọi cách ôn hòa mời các chiến hạm đối phương ra khỏi lãnh hải VN. Nếu họ không thi hành thì được nổ súng cảnh cáo trước mũi các chiến hạm này và nếu họ ngoan cố thì toàn quyền sử dụng vũ khí để bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ Việt Nam”.
23g30 đêm 18-1, đại tá Hà Văn Ngạc gửi điện thượng khẩn đến các hạm trưởng: “Quy luật khai hỏa được căn cứ trên hai trường hợp: Nếu địch khai hỏa trước sẽ “Quy luật khai hỏa được căn cứ trên hai trường hợp: Nếu địch khai hỏa trước sẽ phản ứng bằng hỏa lực cơ hữu tiêu diệt càng nhiều càng tốt, ưu tiên hỏa lực vào các chiến hạm quan trọng như Kronstadt hoặc các tàu lớn. Nếu địch tỏ vẻ ôn hòa, sẽ dè dặt và cảnh giác tối đa với phản ứng ôn hòa tương ứng, đồng thời tiến hành nhiệm vụ tái chiếm đảo Quang Hòa bằng thương lượng, sau đó cắm quốc kỳ lên đảo…”.
Chưa bên nào nổ súng. Nhưng tình hình hết sức căng thẳng suốt đêm 18-1. 3g sáng 19-1, Hạm trưởng San yêu cầu hạ sĩ quan giám lộ Lữ Công Bảy kéo chiến kỳ lên đỉnh cột cờ. Chiến kỳ ngang hai tấc, dài 15 thước tung bay – như một thái độ.
THÊM VÀI NÉT VỀ VỀ HẠM TRƯỞNG VŨ HỮU SAN
Hạm trưởng HQ-4 Vũ Hữu San, sinh năm 1940 ở Đái Nhân, Hoa Lư, Ninh Bình; hồi nhỏ học các thầy Tăng, Cao, Ngọc ở làng Cối, Nho Quan. Vào Nam, học Chu Văn An, rồi theo ban toán các trường đại học ở Sài Gòn, Đà Lạt, Huế; tốt nghiệp Trường Sĩ quan Hải quân Nha Trang (hai ngành chỉ huy, cơ khí) và Trường Chỉ huy Tham mưu Đà Lạt. Ông là hạm trưởng nhiều chiến hạm, chiếc cuối cùng là hạm chủ lực của Hải quân Việt Nam Cộng hòa: khu trục hạm HQ-4 Trần Khánh Dư.
Hạm trưởng HQ-04 Trần Khánh Dư, Vũ Hữu San. (Ảnh tư liệu)
Sau 1975, ở nước ngoài, khi đã gần 40 tuổi, ông vẫn tốt nghiệp cử nhân cơ khí, theo học Post Graduate School để thành chuyên gia tin học. Thỉnh thoảng, rất bất ngờ và thú vị khi ông cộng tác với giáo sư Nguyễn Khắc Kham về văn hoá. Và khi đã cao tuổi, ông vẫn viết hàng loạt sách có giá trị về hàng hải, ghe thuyền và văn hóa nước của người Việt:
– Lược sử tổ chức Hải quân Việt Nam Cộng hòa.
– Địa lý Biển Đông với Hoàng Sa & Trường Sa (đã xuất bản ở Việt Nam).
– Vịnh Bắc Việt & chủ quyền hải phận.
– Tài liệu Hải chiến Hoàng Sa (đã xuất bản ở Việt Nam).
– Sơ lược hải sử và thủy quân nước ta.
– Văn hóa nước.
– Chiến hạm và chiến đĩnh Việt Nam Cộng hòa.
– Ghe thuyền Việt Nam…
CHÍ KHÍ VIỆT LẪM LIỆT TRÊN SÓNG BIỂN HOÀNG SA
6 giờ sáng 19-1, hải đoàn Việt Nam Cộng hòa chia hai phân đoàn: Phân đoàn Một gồm hai tàu tốt nhất HQ-4, HQ-5 đổ bộ các nhóm biệt hải, hải kích (tấn công biển) tái chiếm đảo Quang Hòa (HQ-4 chỉ huy); phân đoàn Hai gồm HQ-10, HQ-16 yểm trợ hải pháo, ngăn chặn tàu địch (HQ-16 chỉ huy).
Theo thượng sĩ giám lộ tàu HQ-4 Lữ Công Bảy, “Khi đến gần đảo Quang Hòa, bằng ống dòm và mắt thường, chúng tôi phát hiện doanh trại mới toanh có cờ Trung Quốc. Ở phía bắc đảo, hàng trăm quân Trung Quốc đổ bộ ào ạt lên. Chúng núp sau các tảng đá chĩa súng vào các biệt đội… Và rồi quân Trung Quốc đã nổ súng. Lúc 8g30, đại liên và cối 82 bắn thẳng vào đội hình nhóm hải kích Việt Nam. Họ đang ở vị trí cực kỳ nguy hiểm. Hai binh sĩ Việt Nam tử thương, hai bị thương”.
Hạm trưởng HQ-4 Vũ Hữu San yêu cầu: Tất cả sĩ quan, binh lính sẵn sàng quân trang, quân dụng chiến đấu với nón sắt, áo giáp, áo phao, giày không cột dây…
9g15. Hai bên phát tín hiệu tiếp tục đòi chủ quyền.
Theo hồi ký của ông Bảy, lúc ấy hạm trưởng San tức giận, “đỏ mặt quát ầm ĩ và đưa nắm đấm sang hướng tàu địch tỏ vẻ căm giận. Ông ra lệnh cho chúng tôi không nhận tín hiệu nữa và thốt lên: “Bọn bố láo”. Đúng kiểu nói Bắc 54.
Khoảng gần 10g, đại tá Ngạc muốn pháo lên đảo để hỗ trợ việc tiếp tục đổ bộ. Hạm trưởng San không thống nhất chuyện này. Lúc đó, theo ông Bảy, “Hạm trưởng San tức tối liệng tổ hợp nghe xuống sàn đài chỉ huy chiến hạm. Ông phân bua với thuộc cấp trên đài chỉ huy: Mấy thằng kia nó để cho mình yên à?!”. Vì theo ông: “Muốn đổ bộ lên chiếm đảo trước mắt phải tiêu diệt lực lượng trên biển rồi sau đó mới tính đến việc đổ quân. Hiện nay tàu địch gấp đôi tàu ta, quân địch đã đổ bộ từ sáng tới giờ đầy trên đảo, ta chỉ có hai trung đội thì làm sao thành công được”.
Ông San nói: “Tôi là quân nhân. Tôi chấp nhận hy sinh vì Tổ quốc nhưng chuyện này hết sức vô lý“. Rồi ông cúp máy và ra lệnh: “Tất cả các khẩu súng nhắm thẳng vào tàu địch“, không chấp hành lệnh bắn vào bờ. Thông tin liên tục báo ngay về Trung tâm hành quân ở Đà Nẵng. Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại phát quân lệnh: “Tùy nghi khai hỏa!”.
* 10G20 SÁNG LỊCH SỬ 19-1-1974, ĐẠI TÁ HẢI QUÂN HÀ VĂN NGẠC, CHỈ HUY HẢI CHIẾN PHÁT QUÂN LỆNH: “KHAI HỎA!”
Bốn chiến hạm HQ-4, HQ-5, HQ-10, HQ-16 rùng rùng tác xạ mãnh liệt vào các tàu chiến Trung Quốc. Soái hạm HQ-5 bắn trúng Kronstadt 274 ngay loạt đạn đầu tiên. Nó lảo đảo và phản pháo nhưng không gây thiệt hại cho HQ-5.
Tuy nhiên, phía Trung Quốc lại cho rằng HQ-4 là soái hạm nên cả hai tàu Kronstadt 271, 274 đều tập trung vào đây. Hồi ký của ông Bảy ghi: “Như đã chuẩn bị trước, Hạm trưởng San ra lệnh “bắn”, đồng thời ông cũng ra lệnh (lúc đó máy tàu đang ở vị trí stop) hai máy tiến full (bỏ qua thông lệ tiến 1, tiến 2, tiến 3); hết tay lái sang phải. Chiến hạm chồm lên phía trước và nghiêng mình sang phải nên đã tránh được loạt đại bác đầu tiên của địch.
Chiến hạm di chuyển với tốc độ cực nhanh, khói đen bốc lên ngùn ngụt, thân tàu rung bần bật vì tiếng dội của các khẩu đại bác vừa khai hỏa. Hạm trưởng San ra lệnh hai máy tiến blanch hết tay lái sang trái, chiến hạm chạy uốn lượn như con rắn, hết phải rồi hết trái tránh được đạn đại bác của địch. Đạn nổ, âm thanh hỗn độn, các cột nước bốc lên chung quanh tàu, tiếng đạn rít lên sau thân tàu, trước mũi tàu, mạn trái, mạn phải ù… vèo vèo… ầm”.
Năm 2014, kể lại giây phút ấy với báo Tuổi Trẻ, trung úy Roa, người có mặt trên đài chỉ huy HQ-4 cho biết: Chính nhờ hạm trưởng San cho tàu vận chuyển linh hoạt nên tránh được một trái pháo của tàu đối phương bắn vào đài chỉ huy, tuy nhiên nó lại bay vào ống khói. Mảnh đạn văng vào đài chỉ huy trúng ngay chân trung úy Roa. Các mảnh đạn khác cũng phá sụp chân màn hình radar làm nó không hoạt động. Tuy nhiên, trung úy Roa vẫn trụ vững ở vị trí theo dõi tàu địch. Dây liên lạc sĩ quan hải pháo với các khẩu đội đã bị mảnh đạn cắt đứt, không liên lạc được.
Phía bên kia, trong làn đạn 76,2 ly của HQ-4 Trần Khánh Dư, chiếc Kronstadt 271 bị trúng đạn bốc cháy dữ dội. Xạ thủ 85 ly của tàu Trung Quốc Vương Tuấn Minh, trên Ordinance (tờ báo nghiên cứu vũ khí của Trung Quốc) kể: “Lúc 271 và 274 cận chiến với HQ-4, chính ủy và hạm phó tàu anh (274) bị bắn chết. 274 không điều khiển nổi. Còn soái hạm 271 trúng đạn, Tằng Đoan Dương chết…”.
Ở phân đoàn Hai, theo hạm trưởng Lê Văn Thự, HQ-16 “quay ngang tàu đưa phía hữu mạn của tàu hướng về ba tàu Trung Quốc. Với lợi thế là sử dụng được tối đa hỏa lực nhưng cũng có bất lợi là hứng đạn nhiều hơn”. Các khẩu pháo của HQ-16 bắn liên tục. Thật kỳ diệu, dù là tàu nhỏ nhất, lại hư một máy, nhưng ngay sau lệnh khai hỏa, các khẩu đội pháo trên chiếc HQ-10 Nhựt Tảo cũng trực xạ vang rền.
Trục lôi hạm 389 của Trung Quốc phát nổ, bốc cháy. Trục lôi hạm 396 gần đó cũng trúng đạn, hệ thống lái bị hư hại toàn toàn, liêu xiêu trên biển. Các báo cáo của Hải quân Trung Quốc sau đó cũng thừa nhận hai chiến hạm 389 và 396 của mình đã trúng đạn ngay từ phút đầu: “Trong lúc chiếc hộ tống hạm HQ-10 bị trọng thương, trục lôi hạm 389 cũng bị chiến hạm Việt Nam bắn hư hại nặng. Đài chỉ huy hoàn toàn bị tiêu hủy. Thủy thủ đoàn nhiều người chết, bị thương. Hầm chứa đạn bị bắn thủng một lỗ lớn… Hầm máy cũng bị bắn trúng nên cháy dữ dội khiến tàu vô nước, bị nghiêng, không còn dưỡng khí khiến cơ khí phó và năm cơ khí viên tử thương tại chỗ”.
Tuy nhiên, ngay tình thế đang áp đảo, khẩu đội pháo chính phía trước chiến hạm HQ-10 Nhựt Tảo lại kẹt đạn. Khẩu 20 ly đôi cũng kẹt đạn do bắn dồn dập. Máy tàu yếu khiến tàu không xoay chuyển kịp để dùng pháo phía sau. Trong nhựt ký trận Hoàng Sa, chuẩn úy Tất Ngưu, sĩ quan phụ trách khẩu 20 ly và cối 81 ly phía sau tàu, kể đang lúc ác liệt thì đến khẩu 20 ly đôi cũng kẹt đạn.
Cả hai trục lôi hạm 389 và 396 của Trung Quốc tận dụng cơ hội này trả đũa. Chuẩn úy Tất Ngưu kể: “ông và đồng đội đang cố gắng tác xạ phía sau thì bất ngờ nghe tiếng rầm. HQ-10 Nhựt Tảo và chiếc 389 đụng nhau. Từ đài chỉ huy, đại úy hạm phó Nguyễn Thành Trí dùng súng M16 bắn xối xả sang tàu đối phương. Có người cho rằng vì cả hai máy tàu lúc này đều bị bắn hư nên chúng tự trôi vào nhau…”.
Tàu HQ-16 cũng trúng đạn ở hầm đạn 127 ly phía trước mũi nên nước biển tràn vào mỗi khi tàu chúc xuống. Tàu bị nghiêng dần sang một bên. Hỏa lực chính hết tác xạ được, mất khả năng chiến đấu. Trung tá Thự cho tàu tạm lùi khỏi lòng chảo Hoàng Sa.
Tàu chiến hai bên đều tơi tả. Đến lúc này, số thương vong hai bên ngang ngửa nhau. Cách đó vài chục hải lý, hai tàu chống ngầm 281, 282 còn nguyên vẹn lực lượng, khí tài quân sự đang tiến sát khu vực chiến sự. Hàng chục tàu khác từ đảo Hải Nam được chuẩn bị từ trước cũng sẵn sàng tiến ra.
Các tàu Việt Nam Cộng hòa được lệnh triệt thoái. Trong khu vực hải chiến chỉ còn lại tàu HQ-10 Nhựt Tảo không còn khả năng di chuyển. Thân tàu chi chít vết đạn. Thiếu tá hạm trưởng Ngụy Văn Thà trúng thương ngay cổ đã hy sinh lẫm liệt ngay trên tay lái tàu.
Đại úy hạm phó Nguyễn Thành Trí kêu anh em lên boong, yêu cầu rời tàu. Ông Trần Văn Hà, thủy thủ cơ khí nhớ lại: “Một số anh em như Lê Văn Tây, Ngô Văn Sáu… nhất quyết đòi ở lại với tàu. Đó là những người đã bị thương nặng và cả một số pháo thủ chưa bị gì”.
“Thôi, chiến hữu xuống bè đi, để chúng tôi ở lại” – họ vừa nhắn nhủ lời chia tay vừa xem cơ số đạn còn lại. Trong Nhật ký Hoàng Sa, chuẩn úy Tất Ngưu, sĩ quan phụ trách các khẩu đội pháo phía sau chiến hạm Nhựt Tảo, kể ông là một trong những người nhảy xuống biển sau cùng. Trước khi nhảy, ông gọi hạ sĩ Lê Văn Tây rời tàu. Viên hạ sĩ này trả lời dứt khoát: “Tôi ở lại ăn thua đủ với bọn Tàu”.
Hai tàu chống ngầm 281, 282 đã đến, bắn xối xả trả thù vào chiếc Nhựt Tảo. Đứng từ đảo Hữu Nhật, trung sĩ Trịnh Văn Quý, thuộc nhóm đổ bộ của HQ-4 đã chứng kiến cảnh chiếc Nhựt Tảo oằn mình dưới lửa đạn của hai tàu chiến Trung Quốc mới đến còn nguyên vẹn. Thật kỳ lạ, đến 8g sáng 20-1, trung sĩ Trịnh Văn Quý mới thấy Nhựt Tảo chìm hẳn, gần đảo Hữu Nhật.
Những người lính Việt trên HQ-10 Nhựt Tảo chỉ còn 21 người. Chiến hạm HQ-10 Nhựt Tảo đã nằm lại dưới đáy biển Hoàng Sa cùng hạm trưởng Ngụy Văn Thà (ở Houston, bang Texas, khu Bellaire Blvd có tên đường Ngụy Văn Thà), hạm phó Nguyễn Thành Trí và anh em binh sĩ của mình.
Trong đó, có hai người lính Ông Tạ và cùng xứ Tân Chí Linh của tôi. Một là Hải quân trung úy Vũ Đình Huân, gia đình ở khu Cầu Sạn – Ông Tạ, sau đó riêng anh về khu nhà thờ Hầm ở Thăng Long, Phú Thọ (anh Huân vừa đính hôn xong, chuẩn bị sau khi đi trận về sẽ làm lễ cưới). Hai là Hải quân trung sĩ điện tử HQ-10 Nguyễn Quang Xuân, trong nhà và hàng xóm gọi là Sinh.
Nhà anh Xuân trên đường tới nhà thờ Tân Chí Linh xứ tôi. Anh là con trai ông bà Tờ, cháu nội cụ chánh trương Sổ của xứ Tân Chí Linh. Nhà anh đối diện nhà cụ Tú hớt tóc, bố của ông Cử, chủ phở Phú Vương sau này. Đi ngang nhà lúc đó, tôi nhớ mang máng trên bức tường chính của ngôi nhà có chân dung anh và hình một chiến hạm bên cạnh, là HQ-10 Trần Khánh Dư?
Họ đã sống những giây phút cuối cùng lẫm liệt, bi tráng vì Tổ quốc – Giang sơn – Dân tộc Việt.
* * *
HẦU CHUYỆN “NHỮNG TRAI HÙNG ĐI GIÚP NON SÔNG” NĂM XƯA
(Trích “Sài Gòn một thuở – Dân Ông Tạ đó” tập 2 – đã phát hành)
Anh Vũ Hữu San, hạm trưởng khu trục hạm HQ-4 Trần Khánh Dư vẫn nóng tính như ngày nào tham chiến, chỉ huy hành quân Hải chiến Hoàng Sa 1974 khi “yêu cầu” lính cũ của mình là giám lộ tàu HQ-4 Lữ Công Bảy: “Bảy cố gắng mời bằng được Cù Mai Công, hàng xóm vùng Ông Tạ của anh, cho anh được vui cuối đời“.
Tôi mạo muội gọi anh San là anh vì cụ Soạn, ba anh và ba tôi cùng lứa ở Ông Tạ, dù cụ hơn tuổi ba tôi. Đúng ra về tuổi, anh San là bậc cha chú tôi. Nhưng vì anh là con trưởng trong nhà, tôi là con thứ, gần út nên kém anh San gần 30 tuổi.
Trong cuộc hải chiến bi hùng ấy, tàu HQ-4 vùng vẫy, tung hoành giữa vòng vây hai tàu lớn của Trung Quốc là 271, 274. Hải quân Trung Quốc tưởng HQ-4 là soái hạm nên tập trung hỏa lực tấn công, kèm chặt. Lúc ấy, anh Bảy đứng sát cạnh anh San trong phòng chỉ huy, nghe mồn một lệnh khai hỏa trước vào tàu Trung Quốc của anh San kèm một câu chửi rất… Bắc 54 Ông Tạ của anh San: “Bọn bố láo”. Tới giờ, gần nửa thế kỷ, anh Bảy nhớ mãi tiếng chửi dõng dạc trên tuyến đầu ấy và vẫn gọi anh San là “sếp San” đầy vẻ yêu thương, kính trọng.
Buổi họp mặt trong một khu vực như một làng quê sông nước, đường đi quanh quẹo hơn đường làng, hai bên là dừa nước, kinh rạch…, vùng ven thành phố. Tôi đến cùng niềm yêu và kính trọng “những trai hùng đi giúp non sông” ngày ấy. Buổi họp mặt gia đình nhiều chiến hữu Hoàng Sa năm xưa nay đã 70, 80, 90 tuổi, có vị tóc bạc phơ, đi đứng chậm chạp; người ở Sài Gòn, người ở tỉnh, trong nước, ngoài nước. Nhưng khi nhắc chuyện ngày xưa, họ như trẻ lại, nhắc lại từng chi tiết không bao giờ quên. Trung sĩ nhứt Lê Văn Thành, xạ thủ dàn 76,2 ly nã đạn dồn dập vào tàu Trung Quốc năm xưa rờ rờ tay vô ụ súng 76,2 ly trên boong tàu mô hình khu trục hạm HQ-4 Trần Khánh Dư mới vừa đóng xong, kể từng chuyện.
Chiếc tàu mô hình dài 1 m 80, hệt như chiếc HQ-4 năm xưa, kể cả dàn hỏa tiễn (tên lửa) Con Nhím mặt trước boong tàu thật ra… không có đạn – vì khi bàn giao tàu, Mỹ không trang bị đạn vì không nghĩ sẽ có hải chiến. Anh em tiếc đứt ruột chuyện này: “Giá mà nó hoạt động, các tàu Trung Quốc lúc đó sẽ trả giá nặng nề”. Tàu mô hình nhưng có gắn máy, chạy được vững vàng trên mặt nước ao khá rộng bên cạnh chòi lá anh em họp mặt. Tiếc là chủ quán ăn gia đình này ngại gì đó, phân bua việc không cho tàu chạy.
Tôi ngồi cạnh chú Nham, Bắc 54 Nam Định, hạm phó HQ-4 vừa từ Mỹ về. Trước mặt tôi là chú Nguyễn Xuân Hiển, Bắc 54 Ninh Bình, xưa là lính thợ máy tàu HQ-800, cơ xưởng hạm nổi chuyên sửa chữa tàu ngoài khơi. Chú Hiển cũng Bắc 54 Ông Tạ, nhà cách nhà tôi vài trăm mét. Sát bên tôi là Trần Song Hải, tổng giám đốc Công ty tàu cao tốc Greenlines DP; ông chủ bia Hoàng Sa – Trường Sa lừng lẫy mấy năm nay. Hải là con trai của Hải quân trung tá Trần Văn Tâm, giám đốc Trường Chỉ huy Tham mưu năm xưa. Tôi và Hải thân như anh em nhiều năm rồi.
Các chiến hữu Hoàng Sa năm xưa đến với buổi họp mặt bằng tiền túi của mình. Chú này góp 100 ngàn, chú kia góp 200 ngàn đồng. Cả buổi họp mặt xôm tụ gần 20 người vậy đó mà chỉ hết 1, 8 triệu đồng. Họ gọi điện thoại có hình ảnh cho bạn bè ở nước ngoài chưa về được. Nhưng dịp này, các chú bàn nhau hùn nhau quyên góp làm bốn mô hình của bốn chiến hạm từng tham gia Hải chiến Hoàng Sa để gửi tặng cho Nhà trưng bày Hoàng Sa tại Đà Nẵng sắp tới.
Trước đó, tôi chạy vội đến lò giò chả hơn 60 tuổi và ngon nhất Ông Tạ, có khi ngon nhất Sài Gòn – Gia Định mua mấy cây giò mà xưa hạm trưởng Vũ Hữu San từng ăn khi còn ở Ông Tạ. Giò vừa ra lò, còn ấm nóng. Khoanh giò cắt ra thơm phảng phất, ngọt đẫm miệng như từ hơn 60 năm nay. Các anh các chú ăn, ai cũng nức nở khen ngon, hỏi địa chỉ. Không rõ do giò ngon hay từ tình cảm của chiến hữu dành cho hạm trưởng HQ-4 dân Ông Tạ năm xưa, hay do cả hai.
Và trong buổi họp mặt ấm nồng tình xưa nghĩa cũ này, người giám lộ Hoàng Sa năm xưa, anh Lữ Công Bảy dù hết sức vất vả cho buổi gặp, đôi mắt vẫn ánh lên niềm hạnh phúc với anh em, với “sếp San”. Anh Bảy hạnh phúc thật sự với mô hình HQ-4 do anh nhờ thợ đóng, ráp máy theo mẫu vẽ tay của hạm trưởng của mình ngày nào. Anh Bảy cầm tay tôi: “C đến, anh San bên Mỹ chắc vui lắm”.
… Tôi ngồi lặng bên các anh các chú, nghe như thấm từng lời của những trai hùng đất Việt năm xưa giờ vẫn đau đáu nỗi niềm ở tuổi gần đất xa trời.
P/S: “CON ĐÃ LÀM HẾT SỨC MÌNH, VẬY LÀ ĐƯỢC RỒI”
Sau Hải chiến Hoàng Sa, Phó đề đốc Lâm Nguơn Tánh xuống thăm HQ-4, xem chiến hạm thiệt hại ra sao. Khi đó, nước các hầm đáy tàu vẫn còn chảy ra khá nhiều từ những lỗ thủng quanh chiếc khu trục hạm Trần Khánh Dư này. Thân tàu HQ-4 chi chít vết đạn nhưng nó vẫn tự lực về Đà Nẵng, thậm chí còn dìu một tàu bạn.
Ngày 20-1-1974, khi về tới bến, hạm trưởng HQ-4 Trần Khánh Dư Vũ Hữu San phát biểu khi được hỏi cảm tưởng về trận hải chiến: “Đây là dịp để HQ-4 chúng ta đánh đấm Tàu Cộng hả hê luôn!”.
Hạm phó HQ-4 Nguyễn Thành Sắc nói cụ thể: “Hôm qua đụng trận, ba chiếc tàu Trung Cộng cứ cùng nhắm bắn vào tàu tôi vì tưởng chiếc khu trục hạm HQ-4 này là O.T.C (tàu tổng chỉ huy). Họ vận chuyển chiến thuật cách khoảng chừng 1.000 yard (1 yard = 0,9144m; 1.760 yard là một dặm biển/hải lý – mile) và khi bị tàu mình bắn cháy thì nó tuôn khói màu mù mịt. Nó chơi chiến thuật “hỏa mù” mà. Được hỏi về tinh thần chiến đấu của nhân viên, hạm phó cho biết là rất khá và cũng vì họ căm thù bọn Tàu Cộng qua mấy lần bị chúng khiêu khích. Cho nên khi lệnh khai hoả vừa ban ra chưa dứt thì đạn đã bay vào tàu địch rồi!”.
Sau hải chiến, về nhà thưa trình với cha, cụ Vũ Hữu Soạn. Người cha vốn nghiêm cẩn trong giáo dục con cháu và cũng từng “vào sinh ra tử” trên chiến trường bao nhiêu năm chỉ nói gọn: “Con đã làm hết sức mình, vậy là được rồi”.
_______
Một số hình ảnh:
Buổi họp mặt những quân nhân dự Hải chiến Hoàng Sa 1974. Đứng sau giám lộ Lữ Công Bảy (đội nón đỏ) áo đen, là tôi. Bên cạnh (áo bông) là Trần Song Hải, tổng giám đốc Công ty tàu cao tốc Greenlines DP; ông chủ bia Hoàng Sa – Trường Sa. Song Hải là con trai Hải quân trung tá Trần Văn Tâm, giám đốc Trường Chỉ huy Tham mưu năm xưa. (Ảnh: Tự Trung)
Cựu binh Hoàng Sa năm xưa bên mô hình tàu HQ-4 Trần Khánh Dư. (Ảnh: Cù Mai Công)
Cựu binh Hoàng Sa năm xưa bên mô hình tàu HQ-4 Trần Khánh Dư. (Ảnh: Cù Mai Công)
Cựu binh Hoàng Sa năm xưa bên mô hình tàu HQ-4 Trần Khánh Dư. Giám lộ Lữ Công Bảy thứ hai, từ trái sang. (Ảnh: Cù Mai Công)
Buổi họp mặt những quân nhân dự Hải chiến Hoàng Sa 1974. Giò chả Ông Tạ có trên bàn ăn. (Ảnh: Cù Mai Công)
Gia đình cụ Vũ Hữu Soạn thuở mới di cư 1954. Con trai cả Vũ Hữu San đứng cuối hàng. Có lẽ là gia đình quân nhân nên các con xếp hàng như lính. (Ảnh gia đình)
Gia đình cụ Vũ Hữu Soạn sau 1975 bên Mỹ. Con trai cả Vũ Hữu San lần này được đứng hàng đầu. Có lẽ là gia đình quân nhân nên luôn xếp hàng như lính. (Ảnh gia đình)
Chiếc nón Khu trục hạm HQ-4 Trần Khánh Dư, kỷ niệm Hải chiến Hoàng Sa mà tôi được các chú tặng trong buổi họp mặt. (Ảnh: Cù Mai Công)
Cù Mai Công
Theo https://baotiengdan.com ngày 17-18-19-20/1/2024
P/s: Danh sách các quân nhân Việt Nam Cộng Hòa hy sinh trong Hải chiến Hoàng Sa 1974 – Báo Thanh Niên:
https://thanhnien.vn/danh-sach-cac-quan-nhan-viet-nam-cong-hoa-hi-sinh-trong-hai-chien-hoang-sa-1974-1855655.htm
Be the first to comment