Sau 30 tháng 4 – 1975, chính quyền mới gộp tất cả các bản nhạc thời VNCH gọi chung là “Nhạc Vàng”. Nhìn tổng quát, nhạc trước 75 có nhiều thể loại:
- Nhạc trữ tình mang nhiều âm hưởng của nhạc Tây phương, bàng bạc nét lãng mạn của nhạc tiền chiến (nhạc của Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Hoàng Trọng, Văn Phụng, Cung Tiến…) – Ca sĩ thống lĩnh dòng nhạc nầy là cô Thái Thanh và Anh Ngọc.
- Nhạc thính phòng, êm dịu, nhẹ nhàng, phiêu lãng (nhạc của Từ Công Phụng, Vũ Thành An, Ngô Thụy Miên…) là loại nhạc sở trường của ca sĩ Lệ Thu, Tuấn Ngọc…
- Nhạc Trịnh Công Sơn chất chứa một chút triết lý, một chút phản chiến, rất được ưa chuộng với giọng ca cô Khánh Ly.
- Nhạc thời trang là loại nhạc đại chúng (pop music) là thể loại thông dụng nhất trong giai đoạn nầy, nó xoay quanh một số chủ đề:
– Nhạc quê hương (nhạc của Hoàng Thi Thơ, Duy Khánh, Thanh Sơn, Phạm Thế Mỹ…)
– Nhạc tình (nhạc của Lam Phương, Hoài Linh, Anh Bằng, Lê Dinh…)
– Nhạc lính (nhạc Trần Thiện Thanh, Minh Kỳ, Trúc Phương…)
(Hình chụp qua YouTube)
Chỉ là cách chia tương đối vì mỗi nhạc sĩ có khi họ viết nhiều thể loại. Mỗi một thể loại, các nhạc sĩ viết bằng nhiều giai điệu khác nhau. Ví dụ, với nhạc thời trang, các giai điệu thường được dùng là: Slow Rock, Habanera, Boléro, Rumba Boléro… nhưng mà nhiều nhất là Boléro.
Ngoài ra, còn nhiều thể loại khác nữa, không kể ra hết được. Tôi chỉ xin thu hẹp đề tài vào nhạc Boléro để nhìn rõ hơn về dòng nhạc hiện được đại chúng ưa chuộng nhất, và cũng xin gói gọn trong thời kỳ khởi đầu của dòng nhạc Boléro ở Việt Nam để tìm hiểu những nhạc sĩ tiên phong, có công khai phá dòng nhạc Boléro Việt Nam (1954–1965).
Boléro là loại nhạc khiêu vũ do một vũ sư người Tây Ban Nha tên Sebastian Cerezo sáng tạo ra vào năm 1780. Dần dần điệu nhạc nầy thịnh hành ở các nước châu Âu như Anh, Pháp… Chính người Pháp đã mang điệu Boléro sang Cuba khoảng năm 1800 và trở thành điệu nhảy đường phố phổ biến ở Cuba và các xứ Nam Mỹ.
Khoảng thập niên 50, điệu Boléro bắt đầu du nhập vào Việt Nam. Boléro từ đầu là một giai điệu như những giai điệu khác: Rumba, Chachacha, Valse… về sau đã trở thành một dòng nhạc đại chúng khi vào Việt Nam: Dòng nhạc Boléro Việt Nam.
Chưa có tài liệu thật chính xác, nhưng theo một số người nghe nhạc thì bài Boléro Việt Nam đầu tiên là bài Duyên Quê của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ sáng tác năm 1955 (Em gái vườn quê, cuộc đời trong trắng…) Năm 1956, có bài Dựng Một Mùa Hoa của Hoài An và Phó Quốc Thăng (Chào bình minh hoa ban mai lả lơi…) Dẫu sao, từ giữa thập niên 50 đã manh nha thể loại Boléro ở Việt Nam. Đến đầu thập niên 60, các nhạc sĩ đồng loạt cho ra đời rất nhiều bài Boléro được người nghe đón nhận rất nồng nhiệt, nhiều bài còn được yêu thích đến tận bây giờ, không hề xưa cũ. Thế hệ nhạc sĩ tiên phong khai phá dòng nhạc Boléro Việt Nam là những tài danh mà tên tuổi còn được ngưỡng mộ không phai mờ.
(Hình chụp qua YouTube)
Một số bài Boléro điển hình được sáng tác trong khoảng thời gian từ “giữa thập niên 50” đến “giữa thập niên 60”:
Hoàng Thi Thơ:
– Trăng rụng xuống cầu (1956)
– Đường xưa lối cũ
– Ai nhớ chăng ai (1958)
Lam Phương:
– Chuyến đò vĩ tuyến (1956)
– Nắng đẹp miền Nam (1957)
– Chiều hành quân (1958)
Trúc Phương:
– Tình thắm duyên quê (1957)
– Chiều làng em (1958)
– Đò chiều (1959)
– Chiều cuối tuần (1959)
– Nửa đêm ngoài phố (1960)
– Tàu đêm năm cũ (1961-1962)
– Ai cho tôi tình yêu (1963)
Mạnh Phát:
– Bến nước tình quê (Hợp soạn với Lê Mộng Bảo)
– Hoa nở về đêm (1962)
– Đêm không trăng sao (1963)
– Vọng gác đêm sương (1963)
Châu Kỳ:
– Sao chưa thấy hồi âm (1965)
– Hồi âm (1965)
– Cánh nhạn hồi âm
Duy Khánh:
– Biết trả lời sau (1965)
– Tình ca quê hương
Minh Kỳ:
– Chỉ có một người
– Chuyến tàu hoàng hôn (Hợp soạn với Hoài Linh, 1962)
Hoài Linh:
– Sầu tím thiệp hồng (Viết chung với Minh Kỳ, 1965)
– Biệt kinh kỳ (Hợp soạn với Minh Kỳ)
– Giọt lệ vu quy (Với Tuấn Khanh, 1965)
– Nhịp cầu tri âm
– Buồn vào đêm (Viết với Thanh Sơn)
Anh Bằng:
– Lẻ bóng (1962)
– Đôi bóng (1963)
– Nửa đêm biên giới (1963)
– Đêm không ngủ (1964)
– Truyện tình Lan và Điệp (1964-1965)
– Truyện tình Trương Chi – Mỵ Nương (1965)
– Sầu lẻ bóng (1965)
Lê Dinh:
– Ngày ấy quen nhau (1959)
– Tấm ảnh ngày xưa (1961)
– Ga chiều (1962)
– Hạnh phúc đầu Xuân (Hợp soạn với Minh Kỳ)
Hoài An:
– Tình lúa duyên trăng (Lời: Hồ Đình Phương)
– Kỷ niệm nào buồn (1964)
– Tâm sự ngày Xuân (1965)
Y Vân:
– Đôi mái chèo trăng
– Cánh hoa thời loạn
– Những bước chân âm thầm
Phạm Thế Mỹ:
– Bến duyên lành
– Nắng lên xóm nghèo
– Đan áo mùa Xuân
– Những ngày xưa thân ái
– Trăng tàn trên hè phố
Anh Việt Thu:
– Hai vì sao lạc
– Như giọt Xuân rơi
Dzũng Chinh:
– Những đồi hoa sim (1964)
– Tha La xóm Đạo
Phạm Mạnh Cương:
– Loài hoa không vỡ
Lê Trực:
– Tiếng còi trong sương đêm
Tuấn Khanh:
– Quán nửa khuya (1959, hợp soạn với Hoài Linh)
Hình các nhạc sĩ từ trái sang: Hàng đầu: Châu Kỳ – Mạnh Phát – Trúc Phương – Lam Phương – Minh Kỳ – Hoài Linh. Hàng thứ 2: Lê Dinh – Anh Bằng – Hoàng Thi Thơ – Duy Khánh – Hoài An – Phạm Mạnh Cương. Hàng thứ 3: Tuấn Khanh – Y Vân – Dzũng Chinh – Anh Việt Thu – Lê Trực – Phạm Thế Mỹ.
Và rất nhiều bài Boléro khác được ra đời trong thời gian nầy. Nếu hiện nay là thời kỳ “bùng nổ hát nhạc Boléro” thì thập niên 60 có thể gọi là thời kỳ “bùng nổ sáng tác nhạc Boléro”. Số bài Boléro ra đời trong khoảng thời gian đầu (1954-1960) còn khiêm nhường, sang đầu thập niên 60 các nhạc sĩ hăng say sáng tác các bản nhạc theo thể điệu Boléro vì nó được quần chúng đón nhận nồng nhiệt (hợp với tâm tình tác giả và giọng ca lúc bấy giờ).
Năm 1960, thanh niên nam nữ Saigon điên đảo vì một bản Boléro ngoại quốc: “It’s Now or Never” do nam danh ca Elvis Presley trình diễn.
Sang năm 1961, lại thêm một phen “bấn loạn” vì bản “Histoire d’un amour” do nữ ca sĩ người Pháp Dalida truyền cảm hứng.
Đây là hai bản nhạc Boléro thời thượng mà giới trẻ miền Nam đã thuộc nằm lòng, như thêm hương vị cho lòng yêu thích Boléro của khán giả Việt Nam.
Dân miền Nam trước 75 chưa đến 20 triệu người, số lượng nhạc sĩ ít hơn bây giờ rất nhiều. Thế mà chỉ vỏn vẹn 20 năm (1954-1975) các nhạc sĩ VNCH đã sáng tác hàng chục ngàn bản nhạc mà thể loại Boléro là chủ đạo. Ngày nay, trào lưu hát nhạc Boléro đã sáng tác từ nửa thế kỷ trước. Nó vẫn còn hợp thời, quá hợp thời, ý tình như nói thay cho lòng người hiện tại. Lịch sử đã có sự sắp xếp rất thuận lý và lý thú: Bùng nổ đặt nhạc Boléro đi trước, bùng nổ hát nhạc Boléro theo sau. Có những người vừa hát vừa cám ơn các nhạc sĩ trước kia đặt nhạc hay quá. Cám ơn! Cám ơn! Thật thán phục các nhạc sĩ ngày trước không chỉ ở nét nhạc mà còn ở lời ca.
Về nét nhạc thì từ âm giai thất cung (Do Re Mi Fa Sol La Si) của Tây Phương, thường thấy trong các bản nhạc tiền chiến, các nhạc sĩ dòng nhạc Boléro Việt Nam có khuynh hướng nghiêng về giai điệu ngũ cung (Hò Xự Xang Xê Cống) mang âm hưởng Dân ca, có một chút gì đó hơi hao hao với điệu lý, câu hò miền Nam:
“Mây trắng bay qua khi trăng dần lan
Muôn câu hò nhịp nhàng khắp thôn trang
Đoàn người say sưa vui tiếng hát vang
Lúa dâng sữa ngọt đậm tình ta với nàng…”
(Trăng Về Thôn Dã của Hoài An & Huyền Linh)
Boléro từ Nam Mỹ khi du nhập vào Việt Nam thì nhịp điệu chậm hẳn lại để thích hợp với tính cách (tâm hồn, cách hát) của người Việt Nam. Boléro ở Cuba viết theo nhịp 3/4, sang Việt Nam các nhạc sĩ đã chuyển thành nhịp 4/4, và rồi nhạc Boléro Việt Nam đã khác rất nhiều so với Boléro nguyên thủy.
Nhưng nét đặc biệt nhất của Boléro Việt Nam là phần lời ca. Lời rất đời, nghe tới đâu hiểu tới đó, nghe tới đâu thấm tới đó. Nó nói lên tâm sự của từng người, nói lên hoàn cảnh đất nước bi đát vì chiến tranh, nói luôn hoàn cảnh nghiệt ngã của tầng lớp thanh niên phải đối diện với chia ly, mất mát, chịu đựng. Nó trở thành dòng nhạc lớn của Việt Nam vì nó rất Việt Nam.
Ngày ấy ở miền Nam, giữa trưa trời nắng gắt, bác nông phu trên đồng cạn, dưới đồng sâu, làm sao có thể hát một câu nhạc cổ điển Tây Phương cho trâu đi bừa? Nhưng bác rất dễ dàng buông ra vài câu Boléro mùi mẫn:
“Đây xóm nghèo quê tôi khi nắng lên
Hương lúa ngọt tình quê thêm trìu mến…”
(Nắng Lên Xóm Nghèo của Phạm Thế Mỹ)
Còn nữa, ngày anh lên đường ra tiền tuyến, đôi tình nhân bịn rịn chia tay, xót thương cho đời nhau, còn gì ray rứt hơn:
“Xe lăn êm êm lúc ga chiều sắp lên đèn
Mưa thu bay bay vắt ngang trời ướt vai mềm
Hoàng hôn dần xuống
Người trai vì nước đi xây tình quê hương…”
(Chuyến Tàu Hoàng Hôn của Minh Kỳ & Hoài Linh)
Bất cứ lúc nào, nơi nào (ngay cả trong tiệc cưới, bên bàn nhậu…) người Việt Nam vẫn thường hát nhạc Boléro. Âm nhạc Việt Nam buồn vì lịch sử Việt Nam buồn: Do chiến tranh, và bị đô hộ của ngoại bang. Nếu chê bai nhạc Boléro tầm thường, lời lẽ không tinh tế, sâu sắc, là nhạc sến thì tội nghiệp cho dân Việt Nam. Họ có đòi hỏi gì cao siêu đâu, họ rất bình dị. Nhưng hoàn cảnh đất nước không may, đời sống họ vấp phải nhiều khốn khó. Họ cần đến âm nhạc để được xoa dịu, vỗ về, họ cần đến Boléro để bày tỏ nỗi niềm tâm sự.
Giờ đây, sau 40 năm bị “bức tử” (kể từ năm 1975), dân Việt Nam mới đòi lại được quyền hát Boléro và làm cho nó hồi sinh dù chưa hoàn toàn, có những bản nhạc lính vẫn còn bị cấm. Nhìn giới trẻ thi nhau hát Boléro (rất khó khăn, hạn chế về chọn bài, lời ca) trong các cuộc thi được tổ chức liên tục trong nước mới thấy rõ bản chất mộc mạc, hồn nhiên trong tâm hồn người Việt Nam: Có sao nói vậy. Trong trường hợp nầy, tôi suy nghĩ hoài câu “Nghệ thuật vị nhân sinh”. Nghệ thuật đã luôn ở bên cạnh để nâng đỡ tinh thần, là niềm an ủi rất lớn giúp dân Việt Nam vượt qua bao gian khổ trong chiến tranh trước 75 và đối diện với những bất cập trong hiện tại. Nghệ thuật cao quý như vậy sao gọi là sến? Các nhạc sĩ tiên phong khai phá dòng nhạc Boléro Việt Nam có cảm thấy nao lòng hay không?!
Nguồn: FB của ca sĩ Hoàng Oanh
Theo SGN News ngày 2 tháng 1, 2021
Be the first to comment